Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2022

MỪNG CHÚA PHỤC SINH

 



Hôm nay lễ Chúa phục sanh

 

 

Bùi Ngọc Hiển

giới thiệu và chú thích

 

 

Bài kinh này được trích trong Thiên Chúa thánh giáo nhựt khóa tịnh Chúa Nhựt pháp, vẫn quen gọi là Sách Mục lục, được soạn ra từ bao giờ không rõ (quyển sách đã mất bìa và vài trang đầu với vài trang cuối, không còn chỗ nào cho phép xác định năm in), nhưng chắc cũng đã trên một thế kỉ. Vì năm 1925, Imprimerie de la Mission, Quy Nhơn, có in lại quyển Sách Kinh nguyện Ngày thường và ngày Chúa nhựt (xem hình 1) theo như Sách Mục lục. Nơi trang 277 có kinh Hôm nay lễ Chúa phục sinh này, nhưng so sánh với Sách Mục lục có đôi chỗ sai khác.

 



Hình 1 : Trang đầu quyển Sách Kinh nguyện ngày thường và ngày Chúa nhựt in tại Quy Nhơn năm 1925



Hình 2 : trang 277 Sách Kinh nguyện..., Quy Nhơn, 1925, nơi in bản kinh Hôm nay lễ Chúa phục sinh

 

Bản kinh này được tác giả soạn theo lối Đường phú, hoàn toàn giữ đúng luật : có 13 liên, mỗi liên là một cặp vế câu chỉnh đối ; toàn bài gieo độc vận : vần -an (vần chính ; cùng với các vần thông -oan, -uơn1) ; không liên nào bị lạc vận.

 

1.       Hôm nay lễ Chúa phục sanh,

                    trời đất, thần người, thảy đều mầng rỡ ;

          Dầu những linh hồn thánh tổ,

                    tiên tri, vua chúa : chi xiết hỉ hoan !

 

2.       Mầng rất mầng, thiên đàng nay mở rộng ;

          Vui quá vui, linh-bạc2 mới phá tan.

 

3.       Xác Chúa khi đã chịu tử hình,

                    linh hồn xuống lâm-bô3,

                    cứu tổ tông đã đoạn ;

          Hồn Chúa lại trở về nhập xác,

                    mình thánh4 thâu huyệt đá,

                    cửa hang hãy còn nguơn5.

 

4.       Chói lòa năm dấu chơn tay,

                    giờ tí sáng hơn chánh ngọ6 ;

          Yếng giại khắp bầu thế giái7,

                    nửa đêm nhìn tỏ duông nhan8.

 

5.       Có phép thông linh :

                    trong nháy mắt đều thấu đất trời nơi bền cứng9 ;

          Dư tài thánh trí :

                    chẳng lặng tai cũng tường lòng chúng việc lo toan10.

 

6.       Trong tay cầm bảy ngôi sao11,

                    chìa khóa địa hình, phép Người coi giữ ;

          Con mắt tợ hai vầng sáng,

                    máy then thiên địa, tay Chúa cầm quờn12.

 

7.       Trước về viếng an ủi Mẫu từ,

                    kẻo đau dạ dường dao cắt ruột ;

          Sau đến thăm giải khuyên môn đệ,

                    kẻo lo buồn tợ muối xát gan.

 

8.       Bỏ thuở đất trời đều u ám ;

          Mầng nay hồn xác đặng khỏe an.

 

9.       Ma quỷ bó tay :

                    hết phép hại tàn trong nhơn vật ;

          Giáo nhơn mầng dạ :

                    đặng ban ơn tẩy khỏi tội troàn13.

 

10.      Thêm phước trọng nhờ ơn bí tích ;

          Vì công cao cứu chúng14 lầm than.

 

11.      Chúa dạy dỗ bốn tuần,

                    cho môn đệ biết đàng hóa chúng15 ;

          Chúa trải qua muôn khổ,

                    rày thân linh hưởng sự thinh nhàn16.

 

12.      Chúa là đầu các giáo nhơn :

                    Chúa vinh hiển, tôi sau cũng đặng phần vinh hiển ;

          Con thật chơn tay mình vóc17 :

                    Cha sanh huờn, con sau đều đặng phước sanh huờn18.

 

13.      Nhờ ơn Chúa nay hằng sống thuận ;

          Xin giúp con sau đặng thác an.

 

          Amen.

 

 

Một vài chú thích :

 

1. Vần -uơn : vần này không xa lạ trong Việt ngữ. Người ta dễ dàng đọc nó trong Thuở trời đất..., quở trách, huơ tay huơ chân..., nhưng khi gặp những chữ như huờn (= hoàn), huỡn (= hoãn), duơn (= duyên), nguơn (= nguyên),... thì cứ viết sai thành hườn, hưỡn, dươn..., rặt những chữ vô nghĩa. Thậm chí chương trình gõ tiếng Việt khá nổi tiếng là Unikey cũng tự động sửa đúng (huờn, huỡn, duơn, nguơn) thành sai (hườn, hưỡn, dươn, ngươn) ! Thật ra đọc những chữ như huờn, huỡn, duơn, nguơn có gì khó đâu : chỉ việc tách thành hai phần rồi đọc luyến liền với nhau : hu-ờn, hu-ỡn, du-ơn, ngu-ơn (tuy nhiên giọng Đàng Trong đọc các chữ huờn, huỡn nghe na ná như guờn, guỡn !).

 

2. linh-bạc và 3. lâm-bô : đều là từ ngữ phiên âm chữ limbus trong Latin, có nghĩa là ngục tổ tông. Linh-bạc là phiên âm Nho từ 靈薄 ( ) linh-bạc (ngục), đến lượt linh-bạc lại là những chữ Nho mà anh em Công giáo người Hoa (đọc theo giọng quan thoại nghe na ná như linh-bô) dùng phiên âm limbus trong Latin hoặc limbo trong tiếng Anh, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, Í. Còn lâm-bô, đúng ra phải đọc là lim-bô, vì trước khi được viết bằng chữ Quốc Ngữ, thì các giáo sĩ Tây phương đã dùng chữ Nôm viết là 林甫 (hay 林哺 / 林晡 / 林逋 ). Chữ vốn có âm Nho là lâm (nghĩa là rừng), nhưng lại cũng có âm Nôm là lim (như trong 椇林 gỗ lim). Đối với các cụ ta ngày xưa, gỗ lim là khái niệm quen thuộc, nên nhìn thấy 椇林 thì đọc gỗ lim chứ không đọc gỗ lâm ! Nhưng limbo là khái niệm xa lạ, nghe không quen tai, lại không biết mặt chữ Tây, nên thấy 林甫 thì đọc lâm-bô, có biết đâu phải đọc lim-bô mới đúng. Rồi cái sai cứ thế quen mồm đi ! Trong chữ Nho, limbus còn được dịch (không phải phiên âm) là 古聖所 cổ thánh sở = chỗ [ở] của các thánh xưa (tức các thánh thời Cựu ước) sau khi các ngài chết, trước khi được Chúa Giêsu cứu chuộc.

 

4. mình thánh : tất nhiên là thân mình Chúa Giêsu, nhưng không hiểu được là bí tích Mình thánh.

 

5. còn nguơn : tức là còn nguyên, biến âm theo giọng Đàng Trong (do tị húy).

 

6. giờ tí sáng hơn chánh ngọ = nửa đêm mà sáng hơn giữa trưa. Không biết Chúa sống lại lúc nào, chỉ nói được là vào đêm của ngày thứ nhất trong tuần lễ sau tuần lễ Bánh không men, tính theo lịch Do-thái, tức là ngay sau khi mặt trời lặn ngày Thứ Bảy đến lúc mặt trời mọc sáng Chúa Nhật tiếp theo. Vì vậy nói giờ tí thì cũng không sai.

 

7. yếng giại khắp bầu thế giái : các chữ xưa (hoặc đọc lối xưa) : yếng = ánh [sáng] ; giại = chiếu giãi, chiếu rọi ; thế giái = thế giới ; bầu thế giái = quả địa cầu.

 

8. duông nhan : tiếng xưa = dung nhan.

 

9. trong nháy mắt đều thấu đất trời nơi bền cứng = trong nháy mắt đều nhìn thấu hết mọi nơi dù là nơi vững bền chắc chắn nhất trong trời đất.

 

10. chẳng lặng tai cũng tường lòng chúng việc lo toan : lặng = lắng ; lặng tai = lắng tai ; chúng = mọi người. Cả câu = không cần phải lắng tai cũng biết rõ việc lo toan trong lòng mọi người.

 

11. trong tay cầm bảy ngôi sao : sách Khải huyền 1:16 : Ngài cầm nơi tay hữu bảy ngôi sao, và từ miệng Ngài phóng ra thanh gươm hai lưỡi sắc bén ; mặt Ngài tựa hồ mặt trời lúc cực kì chói lọi.

 

12. quờn = quyền, biến âm theo giọng Đàng Trong (do tị húy).

 

13. tội troàn = tội [Tổ tông] truyền, biến âm theo giọng Đàng Trong (do tị húy).

 

14. chúng : xem số 9.

 

15. chúng : xem số 9 ; hóa chúng : giáo hóa chúng nhân = dạy người ta cho được thay đổi.

 

16. thinh nhàn = thanh nhàn, biến âm theo giọng Đàng Trong (do tị húy).

 

17. Chúa là đầu các giáo nhơn..., con thật chơn tay mình vóc : Hội thánh là thân mình mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, mà Người là đầu, còn các thành phần dân Chúa là các phần thân thể. Xem thư Êphêsô 4:4-16.

 

18. sanh huờn = sinh hoàn, tức là 還生 hoàn sinh = lại sống.

 


Không có nhận xét nào: