Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2023

TẠO VẬT

 TẠO VẬT


Bùi Ngọc Hiển

Trên trang mạng truyền thông mang tên (?) Thư viện lời chúa & thư viện sách quý (sic) của linh mục Nguyễn Văn Mễn, tại https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/tao-vat-la-dang-tao-hoa-hay-loai-thu-tao-nhung-dieu-can-biet-1048.html, có một bài đăng ngày 14-4-2021, tựa là : Tạo Vật là Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo ? - những điều cần biết. Cuối bài, ở góc trái, ghi tác giả (?) là “Le Hai Nam - 578. (14/4/2021)” –  sau đây viết tắt là LHN – nhưng ở góc phải có dòng chữ nhỏ hơn ghi cẩn thận là “Tác giả : Nguyễn Văn Mễn”, tuy nhiên dòng chữ này được tự động thêm vào bất cứ bài viết nào được linh mục Mễn chọn đăng trên trang truyền thông của ngài.

Trước đó đã có bài viết của cha Stêphanô Huỳnh Trụ có tựa đề là Từ vựng Công Giáo : Tạo vật - Thụ tạo, ngày 29-4-2017, đăng trên trang mạng truyền thông của Tổng Giáo phận Saigon, tại https://tgpsaigon.net/bai-viet/tu-vung-cong-giao-tao-vat-thu-tao-48725, được đăng lại trên nhiều trang truyền thông khác, như trang truyền thông của Giáo xứ Hà Nội (TGP Saigon) tại http://www.giaoxuhanoi.com/tu-lieu-van-hoa/tu-vung-cong-giao-tao-vat-thu-tao-2080.html [1]

Trước đó nữa, đầu năm 2004, nhạc sĩ có liên quan là Phanxicô, bút hiệu của tác giả Nguyễn Đình Diễn (viết tắt là Ph – NĐD), đã từng có bài viết trần tình mang tựa là Về hai chữ “tạo vật”, đăng trên trang mạng truyền thông Diễn đàn Thánh Nhạc tại http://www.calendi.com/thanhnhac/uploaded/Phanxico/TaoVat.pdf

Xin có một số ý.

 

I. Về việc xuất hiện “tạo vật” và việc du nhập “tạo vật” trong tiếng Việt

 

LHN viết (sic) :

... từ “tạo vật” theo nghĩa “Đấng Tạo Hóa” cách đây cả trăm năm (thời Nguyễn Trường Tộ, 1830-1871), khi cụm từ “tạo vật” trong chữ Hán mới du nhập vào tiếng Việt.

Việc xác định thời điểm một từ ngữ xuất hiện trong một ngôn ngữ, cũng như thời điểm du nhập một từ ngữ nào đó trong ngôn ngữ này vào ngôn ngữ khác... nói chung không hề là công việc dễ dàng. Không rõ LHN căn cứ vào đâu để có những phán đoán trên. Nhưng có thể xem vài trường hợp sau đây :

 

A. Sự xuất hiện từ ngữ “tạo vật” với nghĩa “Đấng tạo hóa” :

 

Tạm kể theo thứ tự xuất hiện từ sau đến trước :

1). Trong truyện Diệp sinh ở quyển 1, Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715), có câu :

Nhân sinh thế thượng, kì tu hợp nhãn phóng bộ, dĩ thính tạo vật chi đê ngang nhi dĩ ; mặt chữ Nho : 人生世上 , 祇須合眼放步 , 以聽造物之低昂而已 ; tạm dịch : người sống trên đời, chỉ nên khép mắt mà cất bước, kệ cho Trời [khiến] úp sấp [hay] lật ngửa mà thôi ; có lẽ Nguyễn Du đã dịch ý câu này thành “cũng liều nhắm mắt đưa chân / mặc cho con Tạo xoay vần đến đâu [thì đến]”.

Câu “dĩ thính tạo vật chi đê ngang” trên đây được tác giả người Việt Lương Thúc Ký đưa vào tác phẩm Quốc Ngạn, quyển thượng, nhà in Tiếng Dân, Huế, 1931, với dạng (sic) :

... nhắm mắt đưa chưn,  thính đê ngang ư tạo vật 聽低昂於造物 (mà dịch sát là : mặc cho việc úp sấp hay lật ngửa đều ở Trời).

2). Sớm hơn nữa, trong bài từ Giá cô thiên của Lục Du (1125-1210), người đời Tống, có câu :

Nguyên tri tạo vật tâm trường biệt / Lão khước anh hùng tự đẳng nhàn 元知造物心腸別 / 老卻英雄似等閑 ; tạm dịch : Vốn biết lòng Trời thì khác / khiến kẻ anh hùng cũng rỗi không.

3). Hàn Dũ (768-824) trong bài Nam sơn thi, có câu :

Hoàn nghi tạo vật ý / Cố hộ súc tinh hựu還疑造物意 , 固護蓄精祐 , tạm dịch : vẫn nghĩ ý Trời / che chở giúp nuôi tinh lực.

4). Sớm hơn nữa, bộ sử Ngụy thư được biên soạn từ năm 554 đến 559, do Ngụy Thâu (506-572) chủ biên, trong truyện Lí Bưu (444-501) có :

sinh sinh đắc sở, sự sự duy tân, nguy nguy hồ do tạo vật chi khúc thành dã生生得所 , 事事惟新 , 巍巍乎猶造物之曲成也 , tạm dịch : có được những xử trí phù hợp thêm mãi, mọi việc có thay đổi, còn ở Trời cao vòi vọi kia làm cho xong những chỗ khó.

Như vậy từ ngữ “tạo vật” dùng để chỉ “Trời” đã có từ rất sớm, cách nay cả hơn ngàn năm, không phải mới mẻ gì. Khi các giáo sĩ Tây phương sang truyền giáo bên Trung Hoa, có linh mục người ItaliaNiccolò Longobardo (1565-1655), thuộc dòng Tên, đã đến đây năm 1597. Ngài học thông thạo tiếng nói, chữ viết, cũng như phong tục tập quán của người Hoa để làm tốt sứ vụ của mình. Năm 1602, ngài cho khắc in và xuất bản quyển kinh Công giáo chữ Nho : Thiên Chúa thánh giáo nhật khóa. Từ đó tới nay, quyển kinh này được tái bản đến vài chục lần. Trong các kinh có Thánh Mẫu đức tự đảo văn, là bản dịch chữ Nho kinh cầu Đức Bà Litaniae Lauretanae. Kinh chữ Nho này được nhiều giáo dân Việt Nam biết, nay còn nhiều người thuộc (dù chẳng hề biết mặt chữ Nho). Trong sách kinh tiếng Việt, kinh này có tên là Kinh Cầu chữ : chữ tức là chữ Nho, đối lại với Nôm là Quốc âm. Có mấy câu tương ứng với kinh Latin sau :

Tạo vật chi Mẫu 造物之母 : Mater Creatoris

Cứu thế chi Mẫu 救世之母 : Mater Salvatoris

Tương ứng với bản kinh tiếng Việt (được các cố ngày trước dịch rất cẩn thận) là :

Đức Mẹ sinh Chúa tạo thiên lập địa.

Đức Mẹ sinh Chúa cứu thế.

 

B. Sự du nhập từ ngữ “tạo vật” vào nước Ta :

 

1). Cha Stêphanô Huỳnh Trụ dẫn việc Nguyễn Trường Tộ (khoảng 1830 – 1871) trong các bản tâu dâng lên vua Tự Đức đều dùng “tạo vật” theo nghĩa “Đấng tạo hoá”. Thí dụ bản tâu về Giáo môn luận, ngày 11-2 năm Tự Đức 16 (29-3-1863) có những câu : “Thế mới thấy được cái giàu lớn khéo giỏi của Tạo vật. Sở dĩ Thượng Đế chế trị đại địa cũng như con người ta lập các tôn giáo riêng, không bắt ép cái này phải nhập vào cái kia là vì có thâm ý trong đó”, v.v...

2). Không riêng Nguyễn Trường Tộ mới dùng “tạo vật” chỉ “Đấng tạo hóa”. Trong Tuc ngữ, Cổ ngữ, Gia ngôn của Paulus Của Huình-Tịnh [2], trang 70, vần T, số 22, cũng có :

22 Tạo vật vô tình.

Trời sinh muôn vật, chỉ thính ư tự nhiên, dường như không chủ ý.



Hình 1 : Hình chụp lại từ nguyên bản Tục ngữ, Cổ ngữ, Gia ngôn có “tạo vật”

3). Đồng thời với Nguyễn Trường Tộ còn có, thí dụ, Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), trong bài hát nói Tự tình có những câu :

Thợ trời sao khéo đa đoan

Cái danh cũng ghét cái nhàn cũng ghen

Danh giả Tạo vật chi sở kị

名者造物之所忌

(= cái danh là cái Trời ghét)

4). Trước đó Cao Bá Quát (1808 – 1855) trong bài hát nói Trời chẳng chiều người của ông có câu đầu tiên là :

Tạo vật sinh nhân tình dữ phú

造物生人情與賦

(= Trời sinh ra người cũng phú cho cái tình)

5). Sớm hơn nữa còn Nguyễn Công Trứ (1778–1858) trong bài hát nói Nghĩ tuổi già mà lo có :

Gẫm cho đến bất nhân là Tạo vật

(bất nhân là Tạo vật : đây là câu chơi chữ mang 2 nghĩa : 1). nếu dùng bất nhân 不仁 thì câu có nghĩa than trách ông Trời : Trời nhẫn tâm, chẳng có lòng nhân từ ; 2). nếu dùng bất nhân 不人 thì câu có nghĩa khác : Trời chẳng phải người ta !).

6). Trước nữa, Ngô Thì Nhậm (1746-1803), trong bài Đường luật 觀異說反唐傳 Quan “Dị thuyết phản Đường” truyện (= Xem truyện “Dị thuyết phản Đường”), ngay câu phá đề viết là :

造物持鈞似不平

Tạo vật trì quân tự bất bình [3]

tạm dịch : Trời cầm cân dường như chẳng đều

7). Lại có thể kể thêm Nguyễn Phi Khanh (1355-1428 ?), cha của Nguyễn Trãi, trong bài phú 葉馬兒 Diệp mã nhi (= Con ngựa lá) cũng có các câu như :

苟非造物之妙 , 化工之至 , 安能致是乎 ?

cẩu phi tạo vật chi diệu, hóa công chi chí, an năng trí thị hồ ? [4]

tạm dịch : nếu chẳng phải sự rất mầu của đấng tạo vật, sự rất khéo của đấng hóa công, thì sao được như vậy ?

...

Như thế ngay từ cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV, các tác gia người Việt đã dùng hết sức tự nhiên, trôi chảy từ ngữ “tạo vật” với nghĩa là “Đấng tạo hóa”. Từ đó phải kết luận rằng từ ngữ này đã có mặt (với nghĩa là [đấng / vị...] dựng nên các vật) trong giới Nho học Việt Nam từ rất sớm, không phải như LHN cả quyết rằng mãi đến thời Nguyễn Trường Tộ “từ “tạo vật” trong chữ Hán mới du nhập vào tiếng Việt”.

 

II. Nghĩa của “tạo vật” trong các văn bản tiếng Việt hơn 100 năm trước

 

A. Các khẳng định hồ đồ của LHN :

LHN viết lặp ba lần rằng (sic) :

... trong các văn bản tiếng Việt xuất hiện trong hơn 100 năm nay, cụm từ “tạo vật” chỉ được sử dụng theo một nghĩa duy nhất là “loài thụ tạo,” chứ không có bản văn nào dùng nó theo nghĩa “Đấng sáng tạo.” (mà lần thứ hai trong ba lần lặp này nói chắc chắn rằng “khoảng 150 năm nay”).

Cũng tức là lặp lại ý của Ph – NĐD (không biết căn cứ vào đâu) rằng (sic) :

Ít ra từ đầu thế kỷ hai mươi, tín hữu Công giáo Việt Nam vẫn luôn hiểu tạo vật là tất cả những gì do Thiên Chúa tạo dựng (creature)

Trong sách Thánh giáo Kinh nguyện bằng chữ Nôm, 1925, sau kinh Cầu các Thánh (xem hình chụp lại nguyên bản chữ Nôm, trang 29ab và t. 30ab) là kinh Cầu chữ (từ dòng thứ 3 trang 29b, đếm từ bên phải sang, hình trên). Các câu kinh Tạo vật chi Mẫu, Cứu thế chi Mẫu ở trang sau (câu thứ 2 và 3, dòng 6, trang 30a, hình dưới).


Hình 2 và 3 : kinh cầu Đức Bà chữ Nho trong bản kinh Nôm聖教經願 Thánh giáo kinh nguyện, 1925 ; hình trước : trang 29ab, gồm phần cuối kinh Cầu các Thánh ; ba dòng cuối (bên trái trang 29b) là kinh Cầu chữ, tiếp sang trang 30ab ở hình sau.

Hình 4 : Hình chụp trang kinh cầu Đức Bà chữ Nho trong bản天主聖教日課 Thiên Chúa thánh giáo nhật khóa in lại năm 1715 bên Trung Hoa. Các câu Tạo vật chi Mẫu, Cứu thế chi Mẫu ở các dòng 5 và 6 (từ bên phải).

 Nếu khi cha Longobardo dịch Litaniae Lauretanae, mà người Hoa không dùng “tạo vật” với nghĩa là “đấng / vị... dựng nên các vật”, thì bản dịch của ngài sẽ lập tức bị đào thải ngay, không thể phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Công giáo Hoa cho đến tận bây giờ. Và khi kinh Cầu chữ “du nhập” vào nước ta, thì lúc đó không thiếu gì người Công giáo Việt giỏi Nho học, có cả những vị từng thi đậu, làm đến các chức quan đại thần trong triều đình Đại Nam, cũng sẽ không thể chấp nhận nếu “tạo vật” trong kinh Cầu chữ được các nhà Nho đương thời hiểu là “vật được dựng nên”.

Như vậy, ngược hoàn toàn với Ph – NĐD (và với LHN), các người Việt Công giáo đầu thế kỉ XX (và không chỉ khoảng thời gian đầu thế kỉ XX mà thôi) chắc chắn đã hiểu “tạo vật” chính là chỉ “Đấng tạo dựng các vật”, y như những người đương thời (Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Trọng Kim... như sau đây) đã hiểu. Thí dụ :

1). Trong tác phầm Truyện Thúy-Kiều (Đoạn-trường tân-thanh) do Bùi-KỷTrần-Trọng-Kim hiệu khảo, Vĩnh-Hưng-Long thư-quán, Hà-Nội, 1925, câu 6 : Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, được chú thích (đánh số 5) như sau (sic) :

(5) Tình-sử : 造物妬紅顏 tạo vật đố hồng nhan : Tạo-hóa hay ghen với người đàn-bà đẹp. Có bản viết là : ... quen với...

Hình 5 : chụp lại nguyên bản Truyện Thúy-Kiều (Đoạn-trường tân-thanh), Bùi-Kỷ và Trần-Trọng-Kim hiệu khảo


Chú thích này được các tác giả về sau dẫn lại, thí dụ Dẫn giải truyện Kim Vân Kiều, Huyền Mặc đạo nhân, 1954, hay Kim Vân Kiều đính giải, Đàm Duy Tạo (trước tác 1986, hiệu đính và phổ biến 2016)... Trong Truyện Kiều chú giải, Lê Văn Hòe, Hà Nội, 1953, t. 14, vẫn câu Kiều Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen trên, có chú thích 6, nguyên văn :

(6) Tình sử có câu Tạo vật đố hồng nhan 造物妒紅顔 nghĩa là Tạo Hóa ghen với người đàn bà đẹp. Đàn bà đẹp thường gặp gian truân, nên người ta cho hình như là Trời ghen ghét với người đàn bà đẹp. Thực ra Trời không ghen ai.

Như thế trong cùng một câu chú thích, Lê Văn Hòe đã khẳng định minh bạch rằng Tạo vật cũng là Tạo Hóa, cũng là Trời.

Cũng nói thêm : trong Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh không có câu “Tạo vật đố hồng nhan”, nhưng lại dẫn mấy câu khác : Tạo vật đố kỳ toàn, Tạo vật đố kỵ, Tạo vật đố tài (xem hình dưới).

Hình 6 :chụp lại nguyên bản Hán – Việt từ điển giản yếu, Đào Duy Anh, nxb Minh Tân, 1949, có các mục từ về tạo vật


2). Trước nữa, trong Nam Phong tạp chí, quyển 6, số 36, Juin 1920, mục Văn Uyển, bài Câu Đối Phúng, Vũ Tích Cống sao lục, trang 545, có đôi câu đối Con rể khóc bố vợ :

Tạo vật khéo trêu ngươi, kéo đám mây mù che núi Nhạc ;

Rể con không nhẽ nín, nổi cơn gió lạnh thảm nhà băng.

3). Vẫn trong Nam Phong tạp chí, có thể thấy Phạm Quỳnh là một trong những người rất hay dùng tạo vật để nói về tạo hóa. Thí dụ :

─ Trong quyển 1, số 4, Octobre 1917, bài Sự giáo dục đàn bà con gái, trang 207, ông viết :

“... Đàn-ông với đàn-bà thực là mây với khói, địa-vị có khác nhau mà thiên-chất thực là một ; tạo-vật cùng cho cái sức bay bổng như nhau...”

─ Quyển 5, số 29, Novembre 1919, bài Gia tộc luận,

trang 379 : “... tạo-vật vẫn đào-thải như thế là thường.” ;

trang 380 : “... chính tạo-vật đã có cách đào-thải...”

─ Quyển 7, số 40, Octobre 1920, bài Phật giáo lược khảo, trang 302 K :

“... Tưởng thế cũng là đủ : cái bí-tàng của tạo-vật, biết chút thế cũng đủ sống...”

─ Quyển 8, số 43, Janvier 1921, bài Bàn về tiểu-thuyết, trang 9 :

“... để chứng rằng tạo-vật vốn vô-tình...” (xem hình).

Hình 7 : chụp lại đoạn văn trong bài Bàn về tiểu thuyết dẫn trên, được in trong Thượng Chi văn tập, do nhà xuất bản Văn Học tái bản năm 2006, trang 674.


và còn ở rất nhiều chỗ khác nữa.

─ Ngoài ra, quyển 21, số 122, Octobre 1927, trang 357, có bài của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, bài Học thuật :

“... Sau rút cục lại suốt đời dở-dang chẳng làm nên công-cán gì, bấy giờ mới lại oán-trách tạo-vật bất-công, đổ tội cho quan chủ-ti không biết kén dùng đến mình...” (nguyên văn : ... 及其終身黄馘 , 貿然惡造物之不平 , 罪有司之不明 ... , ... cập kì chung thân hoàng quắc, mậu nhiên ố tạo vật chi bất bình, tội hữu ti chi bất minh...)

─ Vẫn quyển 21, số 122, Octobre 1927, trang 361, Vũ trung tùy bút, bài Cách uống chè :

... Cái vui về nước non bè bạn, tạo-vật chưa dễ đã cho mọi người được hưởng, có phần lại khó hơn lợi-lộc với vinh-danh...” (nguyên văn : ... 山水朋友之樂 , 造物不輕與人 , 殆有甚於榮名利祿者 ... , ... san thủy bằng hữu chi lạc, tạo vật bất khinh dữ nhân, đãi hữu thậm ư vinh danh lợi lộc giả ...) [5]

─ Đến năm 1974, một tác giả khác là Nguyễn Quốc Hùng đã cho xuất bản Hán Việt tân từ điển, trong đó có mục từ :

造物 tạo vật : làm ra mọi vật, chỉ ông trời.

Qua các trích dẫn trên, có thể kết luận rằng trong các tác phẩm của người Việt, dù được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ, ít nhất cũng ngay từ đầu thế kỉ XV với bài Diệp mã nhi của Nguyễn Phi Khanh (sớm hơn nữa thì không thể biết, vì sách vở, chữ nghĩa... của Đại Việt từ đầu thế kỉ XV về trước bị giặc Minh hoặc đem về Tầu, hoặc thiêu đốt, phá hủy...) cho đến tận năm 1974 với Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng (nếu không kể các tác phẩm của các tác giả khác được tái bản ở các thời điểm còn muộn hơn nữa, như Thượng Chi văn tập được tái bản năm 2006), tức là ít cũng 5 thế kỉ, thì nghĩa của từ ngữ “tạo vật” không hề bị thay đổi : từ ngữ này luôn được dùng để chỉ về [ai đó / vị nào đó / đấng nào đó] tạo dựng các sự vật. Không hề có tác giả nào dùng “tạo vật” để nói về “vật được tạo dựng”. Điều này trái ngược hẳn với nhận định của LHN rằng (sic) :

... các văn bản tiếng Việt xuất hiện trong hơn 100 năm nay, cụm từ “tạo vật” chỉ được sử dụng theo một nghĩa duy nhất là “loài thụ tạo” chứ không có bản văn nào dùng nó theo nghĩa “Đấng sáng tạo”

Sau này các tín hữu Công giáo Việt Nam muộn thời hơn được làm quen (trở lại, nếu trước đó đã từng biết) với “tạo vật” nhưng với nghĩa sai của nó (“tạo vật” là “vật được tạo dựng”) trong khoảng sớm lắm thì cũng là năm 1965 trở đi, như sẽ được trình bày ở mục B dưới đây.

B. Lí sự của LHN :

LHN dùng “kiến thức về ngôn ngữ học” với “các nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ học” để biện hộ cho việc dùng nghĩa sai của “tạo vật” như sau :

Lí sự 1 – của LHN : ... ý nghĩa của một từ hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian (thêm hay bớt)...

Lí sự này là đúng. Nhưng trong một thứ tiếng nói nào đó mà có nhiều từ ngữ cứ thay đổi ý nghĩa theo thời gian, thì con cháu đời sau làm thế nào hiểu được tiếng nói của tổ tiên ? Vì thế các từ như vậy chỉ là một số rất ít ỏi. Trong tiếng Việt cũng vậy, rất nhiều từ Việt có từ thời linh mục Alexander de Rhodes (giữa thế kỉ XVII), chẳng hạn, vẫn giữ nguyên ý nghĩa của chúng đến tận ngày nay. Thí dụ : nhà, domus, cửa, ianua / portus, gối, ceruical [cách viết hiện nay : cervical], chiếu, storea, heo, sus, bò, bos, gà, gallina, vịt, anas, gần, vicinus, xa, distans, đi, eo, đứng, sto... (dẫn lại phần từ ngữ Latin tương ứng mà cha AdR dùng trong tác phẩm của ngài)

Lí sự 2 – của LHN : ... du nhập một từ hay cụm từ từ tiếng nước ngoài, người ta không bắt buộc phải giữ nguyên ý nghĩa của từ hay cụm từ ấy trong tiếng nước ngoài mà có thể thay đổi thành một ý nghĩa khác...

Lí sự này cũng đúng, và cũng như ở lí sự (1), những trường hợp như lí sự (2) này không nhiều. Thí dụ : từ ngữ “ 合眼 hợp nhãn” (dẫn ra trong truyện Diệp sinh, Liêu Trai chí dị ở trên) nguyên được dùng với nghĩa là “khép mắt, nhắm mắt”, nhưng người Việt lại dùng nó với nghĩa là “vừa mắt”. Nhưng xét cho cùng, đó chỉ là do hợp là một từ có nhiều nghĩa (khép, đóng ; cùng, vừa ; gom góp...).

Thí dụ khác : từ ngữ “đồng hồ”. Từ ngữ này có mặt chữ Nho là 銅壺 , tên của một dụng cụ đo giờ, và nghĩa chính xác của “đồng hồ” là “chậu [bằng] đồng”, vì nó gồm nhiều chậu đồng để nước chảy vào / chảy ra, từ đó mà xác định giờ giấc. Từ ngữ này được “du nhập” vào nước ta không biết từ lúc nào. Khi người Tây phương sang ta, “du nhập” theo những dụng cụ đo giờ nhỏ gọn của họ, ta cũng cứ gọi những đồ đo giờ ấy là những cái “đồng hồ”, lại còn “đồng hồ quả quýt” (= chậu đồng [nhỏ bằng] quả quýt ?), “đồng hồ đeo tay” (= chậu đồng đeo lủng lẳng trên tay ?), thậm chí “đồng hồ mặt trời” (= cái chậu đồng [dùng để đựng] mặt trời ?), v.v. và v.v...

Dù sao “nghĩa mới” của “đồng hồ” cũng không xa “nghĩa cũ”, tức là vẫn chỉ về dụng cụ đo giờ, và những từ ngữ dùng sai mà bị gán cho là đúng theo kiểu như vậy cũng không nhiều. Nhưng lí sự này là sai lầm nếu muốn áp dụng cho từ ngữ “tạo vật”.

Lí sự 3 – của LHN : ... cấu trúc cụm từ Hán “tạo vật” này gồm “tạo” là động từ và “vật” là danh từ và trong đó động từ có thể được hiểu theo nghĩa tác động hay bị động. Do đó cụm từ “tạo vật” được hiểu theo nghĩa “vật được tạo thành” (nghĩa bị động) vẫn là hợp lý.

Lí sự này lại cũng có phần đúng đối với những từ ngữ không phải là ... “tạo vật” : thành phần động từ X trong một từ ngữ A hoặc được dùng (và hiểu) với nghĩa chủ động, hoặc cũng có thể được dùng (và hiểu) với nghĩa bị động. Nhưng một khi động từ X đó đã được dùng (và hiểu) với nghĩa chủ động thì lúc nào cũng phải hiểu theo nghĩa chủ động. Ngược lại, nếu động từ X đó đã được dùng (và hiểu) với nghĩa bị động thì lúc nào cũng phải hiểu theo nghĩa bị động. Không thể có chuyện khi thì động từ đó được dùng (và hiểu) với nghĩa chủ động, sau đó ít lâu lại bỗng dưng quay sang được dùng (và hiểu) theo nghĩa bị động. Vì nếu như thế thì ngôn ngữ sẽ loạn hết.

Thí dụ :

+ Những từ ghép trong đó động từ được hiểu theo nghĩa chủ động :

giáo viên : người [làm công việc] dạy [cái gì đó, cho ai đó...]

khán giả : gã [làm công việc] xem [cái gì đó, ai đó...]

tác giả : kẻ làm [cái gì đó]

tẩy giả : người [làm công việc] rửa [ai đó] ...

Bỗng một ngày nọ, có ai đó thích “đổi sang nghĩa mới” bằng cách đem hiểu động từ trong những từ ngữ đó là bị động, thì những “nghĩa mới” sẽ thành :

giáo viên : người được [ai đó] dạy cho [cái gì đó...] (tức là “giáo viên” bỗng hóa ra “học trò” !)

khán giả : kẻ bị [ai đó] xem, dòm (tức là bị ... rình)

tẩy giả : người bị [ai đó] rửa ráy cho (tức là tên thánh Gioan Tẩy giả từ trước đến nay vẫn có nghĩa là “Gioan người làm phép rửa” đột nhiên biến thành “Gioan(,) kẻ bị [ai đó không biết] rửa cho” (!)

tác giả : kẻ bị [ai đó] làm ra (? ; cũng na ná như tạo vật được hiểu sai là vật bị [ai đó] dựng nên)

tác nhân : cái nguyên nhân được [ai đó] làm ra

...

Còn các câu kinh trong kinh cầu Đức Bà chữ Nho dẫn trên sẽ trở thành :

Tạo vật chi mẫu : mẹ của các vật được dựng nên (có lẽ tiếng Anh là : mother of created things, hay văn vẻ hơn : mother of creatures chăng ?)

Cứu thế chi mẫu : mẹ của cõi đời được cứu (mother of saved world ?)

+ Những từ ghép trong đó động từ được hiểu theo nghĩa bị động : ở đây xin dẫn lại các thí dụ trong bài viết Tạo vật - Thụ tạo của cha Stêphanô Huỳnh Trụ :

phế vật : vật bị bỏ đi

di vật : vật được để lại khi chết

cống vật : vật được đem đi dâng biếu

tặng vật : vật được tặng, vật để tặng

Rõ ràng các động từ trong các từ ngữ này không thể hiểu với nghĩa chủ động được, vì không thể hiểu, thí dụ :

phế vật : vật [làm hành động] vất bỏ [cái gì đó vào đâu đó, hay cho ai đó...]

di vật : vật [làm hành động] để lại, dời lại [cái gì đó cho ai đó...]

cống vật : vật [làm hành động] dâng biếu [cái gì đó cho ai đó...]

tặng vật : vật [làm hành động] tặng [cái gì đó cho ai đó...]

Lí sự 4 – của LHN : ... trong tiếng Việt, từ “vật” là chỉ “sự vật” vô tri giác, chứ không bao giờ chỉ “người” có tri giác, nói chi đến việc dùng từ “vật” để chỉ “Thiên Chúa.” Có thể nói việc dùng cụm từ “tạo vật” để chỉ Thiên Chúa là một việc báng bổ không thể chấp nhận được (Chúa mà dám gọi là “vật”).

Chưa nói đến việc hiểu « “vật” trong “tạo vật” là từ chỉ Thiên Chúa (LHN) » là hiểu sai cấu trúc ngữ pháp của “tạo vật”, hãy xem “vật” trong từ ngữ “nhân vật”, như trong câu : “truyện này có 3 nhân vật chính là ông L, cô H, bà N, và 3 nhân vật phụ là cô P, anh N, cô D”, thì không biết đâu là “sự vật vô tri giác”  ?

Trong “tạo vật”, “tạo” là động từ mang nghĩa chủ động, “vật” là danh từ làm đối từ trực tiếp cho “tạo”, “tạo vật” là một ngữ - động từ có nghĩa là “dựng nên các vật”. Khi ngữ - động từ này được dùng làm danh từ (ghép, hay ngữ - danh từ), thì “tạo vật” có nghĩa là “đấng / vị [làm công việc] dựng nên [các] sự vật”. Điều này cũng tương tự từ ngữ “tạo hóa”, nguyên là một động từ kép, có nghĩa là “dựng nên và biến đổi”, được dùng làm danh từ để chỉ về “đấng / vị [làm công việc] dựng nên và biến đổi”, mà không hề cần đến những từ ngữ như “đấng” hay “vị”... ở trước. Có thể xem :

Khóc ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương (được coi là 1772 - 1822) :

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,

Miệng túi càn khôn thắt lại rồi.

Thăng Long thành hoài cổ của bà Huyện Thanh Quan (1805 - 1848) :

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường

Hoặc trong ca dao :

Xưa nay tạo hoá xoay vần,

Hết bần lại phú, chẳng cần gì đâu

Ngoài ra, Nguyễn Văn Ngọc trong Nam thi hợp tuyển, 1934, giải thích hai chữ tạo hóa :

tạo : sáng tạo, gầy dựng, làm ra ; hóa : hóa dục biến đổi tự nhiên, tức là giời đất, ý nói giời đất sinh ra vạn vật.

Theo giải thích đó, rõ ràng ai cũng hiểu “tạo hóa” vốn không phải là danh từ, mà là một động từ kép ; động từ kép này đã được dùng làm ngữ - danh từ, như phần sau của giải thích “ý nói giời đất sinh ra...”.

Kể ra cũng có thể thêm vào “tạo vật” một chữ nữa, như cách làm trong 天主教英漢袖珍辭典 Thiên Chúa giáo Anh – Hán tụ trân từ điển (tiểu từ điển Công giáo Anh – Hán) do 主徒會恒毅月刊社 Chúa đồ hội Hằng-nghị nguyệt san xã xuất bản [6] :

Creator : 造物主 ; 創造者 ; 造物者 [tạo vật Chúa ; sáng tạo giả ; tạo vật giả]

Hoặc trong 拉丁漢文辭典 La-tin Hán văn từ điển của linh mục 吳金瑞 Ngô Kim Thụy (1965) [7] :

Deus creator : 造物者天主 [tạo vật giả Thiên Chúa = Thiên Chúa, Đấng dựng nên các vật]

“Tạo vật Chúa” / “Tạo vật giả” cũng như “Cứu thế Chúa”, là đặt theo cú pháp Nho ; cú pháp Nôm tương ứng là “Chúa tạo vật” / “Đấng tạo vật” và “Chúa cứu thế”.

Nhưng việc làm này có lẽ chỉ cốt cho người thời nay, tạm gọi là hậu Nho học, cả Việt lẫn Hoa, được dễ hiểu. Còn đối với người Nho học xưa, Nho văn được viết theo lối văn ngôn, lời ít ý nhiều, không viết theo lối bạch thoại – nghĩa đen là “nói trắng ra”, tức là “nghĩ sao nói vậy” – thì điều này hoàn toàn không cần thiết. Có thể xem lại trường hợp từ ngữ “tạo hóa”, hoặc “cứu thế” trong “Cứu thế chi mẫu” dẫn trên. Ngay kinh nguyện tiếng Việt cũng có cách dùng “Cứu thế” (không có Chúa / Đấng / Vị) để nói về “Chúa cứu thế” :

Trong Sách Kinh nguyện ngày thường và ngày Chúa nhựt (cũng gọi là Sách Mục lục), Imprimerie de la Mission, Quinhon, 1925, Phần thứ bốn – Các Kinh đọc hoặc hát theo mùa trong năm, I. Các ngày lễ về Chúa, 7 – Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, kinh Lễ Chúa Thánh Thần, có các câu (xem hình chụp lại ở dưới) :

... Sách đã hứa : ngày sau Cứu thế,

Thì đến nay in hiệp nào sai.

...

Anh em đã không tin Cứu thế,

...

Dù không có “Chúa / Đấng / Vì... ” ở trước “Cứu thế”, nhưng chắc chắn không hề có ai lại hiểu “cứu thế” là “cõi đời được cứu” (thậm chí còn không thể hiểu là “sự / việc cứu đời”).


Hình 8 : chụp nguyên bản Sách Mục lục, 1925, có từ ngữ Cứu thế


Trong tiếng Việt, không ít từ ngữ có cấu trúc và cách dùng tương tự với cấu trúc và cách dùng “tạo vật”, “tạo hóa”... Chỉ kể riêng những từ ngữ vẫn gọi là “tiếng nhà đạo”, có : [phép] rửa tội (có khi viết : Rửa tội), thêm (/ Thêm) sức, truyền (/ Truyền) chức, xức (/ Xức) dầu.

Tóm lại, động từ “tạo” trong “tạo vật” không hề mang nghĩa chủ động theo cách hiểu rằng cả từ ngữ có nghĩa là “vật / kẻ... làm công việc dựng nên [ai đó, cái gì đó...]”, mà cũng chẳng mang nghĩa bị động để hiểu “tạo vật” là “vật được [ai đó] dựng nên”.

Để “tăng trọng lượng” cho cái khẳng định rằng :

các văn bản tiếng Việt xuất hiện trong hơn 100 năm nay, cụm từ “tạo vật” chỉ được sử dụng theo một nghĩa duy nhất là “loài thụ tạo, ” chứ không có bản văn nào dùng nó theo nghĩa “Đấng sáng tạo. ” (LHN)

LHN dẫn ra thí dụ :

bản dịch tiếng Việt Công Đồng Vatican II của Giáo Hoàng Học Viện Pi-ô X có hàng chục lần dùng từ “tạo vật” chỉ với ý nghĩa là “loài thụ tạo.”

và ở ngay phần mở đầu, LHN viết :

cha Martino Thông giải đáp bằng cách trưng dẫn các văn bản chính thức của phụng vụ thánh, vốn đều dùng cụm từ “tạo vật” để chỉ “loài thụ tạo.”

Quả là có như vậy. Từ ngữ “tạo vật” là một từ ngữ có hơi hướng “duy tâm”, thuộc lãnh vực siêu hình, triết học, nên từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XX đến nay, từ ngữ này hầu như không còn xuất hiện trong các tác phẩm của người Việt. Chỉ gặp thấy là khi người ta tái bản những tác phẩm đã dùng đến nó, hoặc được người khác dẫn từ các sách vở có trước vào tác phẩm của mình như đã trình bày trên.

Ngày 15-6-1964, với Sắc lệnh Prot. 787/64, Tòa Thánh cho phép Hội đồng Giám mục (HĐGM) miền Nam Việt Nam được dùng tiếng Việt – và một số ngôn ngữ khác của các dân tộc ít người – trong các buổi cử hành PV. Năm 1965, nhà xuất bản Hiện Tại đã cho ra đời Sách Lễ tiếng Việt, dịch theo Missale Romanum 1962 (nghi thức Thánh Lễ “cũ”, quen gọi là “lễ quay lên”) : các bài Thánh thư, Phúc âm, các kinh Cầu nguyện – Oratio, kinh Dâng lễ – Secreta..., các bài ca (ca Nhập lễ – Antiphona ad Introitum, ca Dâng lễ – Antiphona ad Offertorium...) và phần Nghi thức Thánh Lễ, được in chung tất cả vào một quyển, có đối chiếu tiếng Latin bên cạnh tiếng Việt. Không thể phủ nhận giá trị của bản dịch này, các bản dịch sau chỉ thay đổi ít nhiều so với bản này, ít nữa cũng là phần NTTL, từ các lời chủ tế nói với giáo dân cùng những lời giáo dân đáp lại, cho đến các kinh như : Xin Chúa thương xót (Kyrie), Vinh danh (Gloria), lời thưa của giáo dân cuối BĐ, PÂ, kinh Tin kính (Credo), Thánh, Thánh, Thánh (Sanctus), Lạy Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei). Sách Lễ này đã được Hội đồng Giám mục cho phép dùng trong Phụng vụ.

Tất nhiên trong bản dịch cũng có chỗ dịch sai, tuy rất ít, nhưng vẫn cứ là sai. Thí dụ các dịch giả đã dịch creatura (và các biến cách) trong Latin bằng những từ ngữ Việt sau :

─ Chữ dùng đúng :

+ (các / vật / loài) thụ sinh : Col 1:15, lễ Chúa Giêsu Kitô Vua, CN cuối tháng X ; Rom 8:19-23 (có 3 chỗ, riêng creatura trong câu 19 được dịch là họ), CN IV sau lễ Hiện xuống)

+ (các / vật / loài) thụ tạo : Jac 1:18, CN IV sau lễ Phục sinh, lễ một thánh Giáo hoàng tử đạo (ngoài MPS)

+ hoặc chỉ dịch gọn là : mọi loài (kinh Tiền tụng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua), mọi vật (kinh Dâng lễ Secreta, Thứ V tuần Chịu nạn = sau CN lễ Lá), mọi người (Mc 16:15, lễ Thăng thiên)...

─ Chữ dùng sai : chính là tạo vật (Rom 8:39, ngày 1-2, lễ thánh Ignatius ; Gal 6:15, ngày 4-19, lễ thánh Phanxicô khó khăn).

May thay, chỗ dịch sai creatura thành tạo vật trong bản dịch này rất ít so với các chỗ dịch đúng, nên không gây “ấn tượng” mấy.

Khi Hội thánh cho sử dụng Phụng vụ mới, Ủy ban phụ trách việc dịch các sách Phụng vụ trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lần lượt xuất bản Sách Lễ mới (năm 1971) và sách các Bài đọc cho các Thánh Lễ (gồm : mùa Vọng + Giáng sinh, 1969, mùa Chay + Phục sinh, mùa Quanh năm I và II, 1970 ; ngoại lịch, 1973 ; sau đây viết tắt là bản UBGMPV). Đây là một nỗ lực rất lớn, vì chỉ trong khoảng chưa đầy hai năm, Ủy ban này đã dịch một khối lượng đồ sộ các bản văn Thánh Kinh từ Latin sang tiếng Việt để kịp sử dụng trong Phụng vụ, nên các sai sót là điều không thể tránh khỏi. Đối với trường hợp các từ ngữ tiếng Việt được dùng để dịch creatura của Latin có thể kể như sau :

─ Chữ dùng đúng :

1). Mc 16:15 :

+ Thứ VII tuần BN PS, bài Phúc âm : muôn loài

+ Ngày 25-1, lễ thánh Phaolô Tông đồ trở lại : (mọi) loài thọ tạo

2). 2Cor 5:17 :

+ CN IV mùa Chay, năm C, BĐ II : một thụ tạo (mới)

+ Thứ VII tuần X QN, năm lẻ, BĐ I : một thọ sinh (mới)

3). Apoc 5:13 :

+ CN tuần III PS, năm C, BĐ II : mọi thọ tạo’’

4). Rom 1:20 :

+ Thứ III tuần XXVIII, năm lẻ, BĐ I : loài thụ tạo

5). Rom 1:25 :

+ Thứ III tuần XXVIII, năm lẻ, BĐ I : loài thọ tạo

─ Chữ dùng sai : creatura đều được dịch sai là (mọi / các / loài) tạo vật :

1). Mc 16:15 : bài PÂ của CN tuần XIV, năm C ; CN XV, năm C ; CN tuần XXII, năm B ; lễ Chúa thăng thiên, năm B ; lễ thánh Marcô thánh sử ; lễ chung các thánh Chủ chăn ;

2). Rom 8:19-22 : Thứ III tuần XXX QN, năm lẻ ;

3). Gal 6:15 : CN XIV QN, A, BĐII

4). Col 1:15 : CN cuối năm PV, lễ Chúa Kitô Vua, BĐ II

5) Jac 1:18 : các ngày mùa QN :

+ Alleluia của : Thứ VII tuần VIII, Thứ VI tuần XVI, Thứ II tuần XXIV, Thứ VII tuần XXVIII

+ Thứ III tuần VI, năm chẵn, BĐ I ; CN tuần XXII, năm B, BĐ II

Ngoài ra câu Mc 16:15 được dùng làm Đáp ca CN tuần XXI QN, năm C, lại bỏ, không dịch “creatura” của bản Latin.

Không riêng các bản dịch này, nhiều bản dịch Công giáo khác cũng sai như vậy (tất nhiên bên cạnh các chỗ dịch sai thì cũng có chỗ dịch đúng là loài thụ tạo, vật thụ tạo, vật thụ sinh...) như trong :

─ các bản dịch Thánh Kinh của các dịch giả Trần Đức Huân (Cựu – Tân Ước, 1971), Nguyễn Thế Thuấn (Cựu – Tân Ước, 1977), An-sơn Vị (chỉ có phần Tân Ước, 1983)...

─ các bản dịch các văn kiện của Công đồng Vaticanô II do Giáo hoàng học viện Piô X thực hiện (1972).

Hai kết luận từ các bản dịch trên :

Kết luận 1 : các dịch giả không phải là không biết từ ngữ Việt đúng dùng để dịch từ ngữ creatura trong Latin, nhưng có lẽ do chủ quan, nên vẫn để xảy ra các sai lầm đáng tiếc (dẫn tới nghịch nghĩa hẳn so với nghĩa cần dịch ; hơn nữa còn làm cho cộng đoàn hiểu sai). Từ ngữ vật – thụ tạo đặt theo cú pháp Nôm, gồm hai thành phần vậtthụ tạo, nếu đặt theo cú pháp Nho sẽ là thụ tạo – vật 受造 . Có thể từ ngữ thụ tạo vật làm liên tưởng tới từ ngữ tạo vật mà các dịch giả đã từng nghe / đọc (như trong kinh Cầu chữ), nhưng quên nghĩa, mà vì chủ quan, nên đinh ninh rằng tạo vật hay thụ tạo vật thì... cũng như nhau cả. Thế là chữ thụ ( : có nghĩa là được, bị, chịu, nhận) bị đánh rơi mất, trong khi nó lại là chữ rất quan trọng để xác định đúng nghĩa của từ ngữ sử dụng. Có thể xem một trường hợp hoàn toàn tương tự : chữ Nho chỉ “người chịu phép rửa” là 受洗者 thụ tẩy giả (dịch sát : kẻ được rửa). Nếu “đánh rơi” chữ thụ, thì thành ra là 洗者 tẩy giả, nghĩa là đang từ “người chịu phép rửa” trở thành “người làm phép rửa” !

Cũng thế, thụ tạo vật (hoặc vật thụ tạo) và tạo vật không thể mang nghĩa như nhau được. [8]

Kết luận 2 : các trường hợp mà cộng đoàn tham dự Phụng vụ được nghe / đọc chữ dùng sai (là “tạo vật” với nghĩa là “vật được dựng nên”) thì nhiều hơn bội phần so với trường hợp được nghe / đọc những chữ dùng đúng.

LHN biện minh cho việc dùng “tạo vật” bằng cách khẳng định :

“tạo vật” là “loài thụ tạo,” vốn đang được mọi người Việt Nam sử dụng và hiểu như thế trong hàng trăm năm nay

Làm gì có cái gọi là mọi người Việt Nam sử dụng và hiểu (“tạo vật” là “loài thụ tạo”)” ở đây ! Cái gọi là “hàng trăm năm nay” như trên đã trình bày, chỉ có trong tưởng tượng của LHN (và của Ph – NĐD), và hoàn toàn sai lầm, ở đây không nhắc lại.

Hãy nói về việc tiếp xúc với những tác phẩm có dùng từ ngữ “tạo vật” này (tất nhiên là với nghĩa đúng của nó). Suốt nửa sau thế kỉ thứ XX, cơ hội tiếp xúc đó ngày một trở nên hiếm hoi. Thí dụ như nhà văn hóa Phạm Quỳnh, qua hơn nửa thế kỉ, từng bị gán cho là “Việt gian tối nguy hiểm”, tờ Nam Phong tạp chí (dĩ nhiên cả bộ Thượng Chi văn tập, là bộ sách gom góp khá nhiều bài viết của ông từng đăng trên Nam Phong) bị đánh giá là “phản động, bôi nhọ văn hóa dân tộc và tuyên truyền cho văn hóa thực dân”, thì chẳng có mấy người biết tới các bài viết của ông. Và cũng không chỉ có một trường hợp các tác phẩm của Phạm Quỳnh.

Tiếp theo, “tạo vật” không phải loại từ ngữ phổ thông để “mọi người Việt Nam sử dụng”, nhất là khi thuyết Tiến hóa được phổ biến rộng rãi. Người bình thường không nói “tạo vật” ngoài miệng, không nghe vào tai đã đành, mà viết (viết ra, viết đến, viết về...) “tạo vật” có lẽ cũng chẳng mấy ai. Có chăng là một số rất rất ít những nhà dịch thuật Công giáo, mà các bản dịch của các vị đó có điều kiện để phổ biến (dĩ nhiên phổ biến cả cái đúng, lẫn cái sai như trường hợp từ ngữ “tạo vật” này).

Người bình thường cũng không hiểu (nhiều khi cũng chẳng cần phải hiểu xem) “tạo vật” thật ra có nghĩa gì. Chỉ có những giáo dân Công giáo được nghe đến “tạo vật” khi họ tham gia các buổi cử hành Phụng vụ trong nhà thờ, và khi được nghe đi nghe lại (từ ngữ “tạo vật” bị dùng với nghĩa sai) nhiều lần (một năm PV có lẽ được nghe không ít hơn 5 lần trong các lễ Chúa Nhật và lễ trọng, xin xem lại thống kê trên) liên tục trong hơn nửa thế kỉ, thì ắt phải “nhập tâm” (nghĩa sai của “tạo vật”) thôi. Còn ở miền Bắc, phải đến cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ XX trước, mới có “dịp” nghe lại từ ngữ “tạo vật” trong Phụng vụ, tiếc thay lại là “tạo vật” với cách dùng sai, và cái sai đó “trở nên quen thuộc” với người nghe.

Sau đó người Công giáo còn nhiều cách khác để “phổ biến” sự sai lầm ấy, như viết các bài hát có sử dụng “tạo vật”, thí dụ bài Con chỉ là tạo vật (của nhạc sĩ Ph – NĐD) và mấy bài khác. Khi các phương tiện truyền thông đại chúng trở nên phổ biến, người ta không chỉ nghe những bài hát đó trong các nhà thờ, mà có thể nghe ở bất cứ đâu ; và không chỉ người Công giáo ở trong nước Việt Nam mới nghe được, mà bất cứ ai trên khắp thế giới cũng có thể nghe khi họ muốn.

Trong số những người nghe được, dĩ nhiên có những người không cần tìm hiểu, sẵn sàng chấp nhận nghĩa sai của từ ngữ (tức là hiểu “tạo vật” là “vật được tạo nên”) trở thành nghĩa đúng, và một số người, cả Công giáo và không Công giáo, đã bắt chước dùng sai như vậy. Nhưng cũng có người biết chắc chắn từ ngữ dùng với nghĩa “vật được dựng nên” là sai. Do đó mới có chuyện như cha Stêphanô Huỳnh Trụ thuật lại :

Tôi thấy trên mạng có người đặt câu hỏi “tại sao ngày nay người ta hiểu “tạo vật” như là những vật được dựng lên, mà không phải là nghĩa “Đấng Tạo Hoá ?” Người ta trả lời : “Từ ‘tạo vật’ bị dùng sai, có lẽ do cách dùng sai trong tôn giáo”.

(Tạo vật – Thụ tạo, linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ)

Và đây là, nói theo chữ dùng của LHN, “lí do rất chính đáng” để không thểđảo ngược ý nghĩa của cụm từ “tạo vật,” có nghĩa là “Đấng sáng tạo” trong tiếng Hán thành ý nghĩa “loài thụ tạo” trong tiếng Việt” :

Người Việt Công giáo chỉ là thiểu số trong cộng đồng người Việt. Nếu từ xưa đến nay, hoàn toàn không có người Việt nào dùng “tạo vật” với nghĩa là “đấng / vị... dựng nên các vật” (tức là Tạo Hóa, Ông Trời...), thì bất kể trong “tiếng Hán”, từ ngữ ấy có nghĩa ấy (cho dù là trong kinh nguyện Công giáo như kinh cầu Đức Bà đi nữa), thì ta cứ việc “đảo ngược ý nghĩa” của từ ngữ. Nhưng như đã trình bày, trước khi một số (có lẽ không nhiều) người Việt Công giáo dùng “tạo vật” với nghĩa sai trong các tác phẩm của mình, thì đã có rất nhiều người Việt, cả người Việt Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Huỳnh Tịnh Của..., cả người Việt không Công giáo như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Phạm Quỳnh..., dùng “tạo vật” với nghĩa đúng. Nếu cứ khăng khăng cho rằng “tạo vật” chỉ có nghĩa “vật được dựng nên”, thì khi gặp từ ngữ ấy trong các tác phẩm của các vị như Nguyễn Trường Tộ, Phạm Quỳnh... thì sẽ phải hiểu từ ngữ ấy thế nào ? Hơn nữa, các tác phẩm của các vị này được nghiên cứu khảo sát trong cộng đồng người Việt còn rộng rãi hơn nhiều so với các tác phẩm Công giáo (như các bản văn Phụng vụ, các văn kiện của Công đồng Vaticanô II...) Gần đây, năm 2006, toàn bộ Thượng Chi văn tập của Phạm Quỳnh, trong đó có tất cả các bài viết của ông có dùng từ ngữ “tạo vật” theo nghĩa đúng vốn có của nó – đã nói ở trên cũng trong phần II này – đã được tái bản, và nhiều tác phẩm khác nữa (thí dụ : Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, được nxb Khoa Học – Xã Hội tái bản năm 2016, và các sách văn học có các tác phẩm đã nói đến ở phần I trên). Cho nên cả những người sau này dùng sai từ ngữ “tạo vật” sẽ thấy ra cái sai của họ khi đọc lại các tác phẩm giá trị của những nhà Nho học ngày trước.

 

III. Chuyện về từ điển và từ điển “ngu ngốc”

 

Những vấn đề liên quan đến từ điển thì nhiều lắm, năm bảy dòng chữ thì chẳng cách nào “bàn” cho xiết về từ điển. Đây chỉ có ít nhận xét về những từ ngữ trong tiếng Việt mà khi viết bằng chữ Quốc ngữ thì giống nhau (tức là đọc như nhau, có cùng âm đọc) nhưng lại có nghĩa khác nhau.

Có thể kể hai “lớp” từ ngữ thuộc dạng này : những từ ngữ có nhiều nghĩa và những từ ngữ cùng âm khác nghĩa.

Thí dụ về “lớp” từ ngữ thứ nhất : một từ nhiều nghĩa :

Từ Nôm “anh” có thể có các nghĩa sau :

(1). người con trai lớn tuổi hơn những người con khác cùng một cha trong một gia đình (tạm coi là nghĩa “gốc”) ;

(2). con trai của vợ cả so với những con khác của các vợ thứ của cha ;

(3). con trai của người bề trên so với những con của những người bề dưới trong cùng một dòng họ ;

(4). tiếng để người nam này gọi người nam khác trong vòng bạn bè hay ngoài xã hội, không kể nhiều tuổi hơn hay ít tuổi hơn ;

(5). tiếng để người chồng tự xưng khi nói chuyện với vợ, hay tiếng vợ gọi chồng ;

(6). tiếng để người nam tự xưng khi nói chuyện với người nữ (có thể đã là bạn hoặc chưa), hay tiếng người nữ dùng để gọi người nam

...

Từ ngữ “anh” này khi viết bằng chữ Quốc ngữ cho cả 6 trường hợp trên thì mặt chữ hoàn toàn giống nhau đã đành, mà khi viết bằng chữ Nôm cũng hoàn toàn giống nhau. Trong những nghĩa kể trên, người ta chọn ra một nghĩa coi là nghĩa gốc (thí dụ nghĩa (1) trên), những nghĩa còn lại là những nghĩa phái sinh 派生 .

Thí dụ về “lớp” từ ngữ thứ hai : từ cùng âm đọc mà khác nghĩa, những nghĩa này không có liên quan gì với nhau :

Từ Nôm “năm” có thể có các nghĩa sau :

năm (1) : từ chỉ số lượng như trong bốn năm, năm ba...

năm (2) : từ chỉ một khoảng tời gian như trong năm tháng...

Các từ “năm” này khi viết bằng chữ Nôm vẫn có thể dùng cùng một chữ, nhưng thường người ta dùng hai chữ khác nhau để người đọc không bị lẫn lộn.

Thí dụ câu :

Năm năm trời bể ngang tàng

có thể hiểu là :

(1). ngang tàng trên trời dưới nước hết năm này qua năm khác (không cần biết là bao lâu) ;

(2). ngang tàng trên trời dưới nước trong một khoảng thời gian là 5 năm.

Trong truyện Kiều Nôm, câu trên (c. 2555) đã được viết là :

thì không thể lầm nghĩa (nghĩa đúng của câu là nghĩa thứ hai nói trên).

Dù sao, nghĩa của năm (= 5)


 và năm (năm tháng) 

tuy có khác, nhưng chưa phải là những nghĩa đối chọi nhau. Có thể xem hai vế đối sau :

Phong xuy lạp chúc, lưu bán biên, lưu bán biên ;

Nguyệt chiếu phúc bồn, minh nhất xứ, minh nhất xứ.

Mỗi vế đều có hai chữ đồng âm dị nghĩa, mà các nghĩa này hoàn toàn trái ngược, viết bằng chữ Quốc ngữ thì không thể phân biệt, nếu viết bằng chữ Nho sẽ được :

lưu (1) : chảy đi, trôi đi, như trong lưu thủy...

lưu (2) : giữ lại, ở lại, dừng lại, đọng lại, như trong lưu ngụ...

và :

minh (1) : sáng, như trong minh bạch...

minh (2) : tối, như trong cõi u minh...

Tuy biết là vậy, nhưng lưu nào viết trước, lưu nào viết sau... thì không thể nói chắc, vì trước hay sau cũng không làm thay đổi ý của người đặt ra câu đối, tạm dịch là :

Gió táp đèn cầy, nửa trôi nửa đọng

Trăng soi chậu úp, chỗ tỏ chỗ lu

Từ ngữ “công nghiệp” mà Ph – NĐD dẫn ra sau đây cũng là từ ngữ đồng âm dị nghĩa :

xưa nay ta vốn rất quen đọc và hát vì công nghiệp Đức Nữ Đồng Trinh..., nếu cứ chăm chú tra từ điển mà không nhìn vào truyền thống và lịch sử ắt sẽ sinh ra tiếng cảnh báo rằng đọc và hát như thế sẽ khiến giáo dân hiểu lầm rằng công nghiệp là kỹ nghệ (industry) của Đức Maria (sic)

Sự thật là trước khi “công nghiệp” được dùng trong câu hát lời kinh Công giáo với nghĩa là “công trình, công lao, sự nghiệp...” thì đã có (ít nhất) một tác phẩm của Hồ Sĩ Dương (một danh sĩ người Việt, 1622-1681) có tên là Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thật lục. Không ai hiểu lầm rằng quyển sách này là sách nói về “nền kĩ nghệ” của vua chúa đời Lê trung hưng của nước Đại Việt.

Thật ra có hai từ ngữ đồng âm dị nghĩa trong trường hợp từ ngữ công nghiệp này :

công nghiệp (1). 工業 (từ chữ công : thợ, việc làm, làm việc, khéo léo ; như công nhân工人 ,  công tác 工作 ...)

công nghiệp (2). 功業 (từ chữ công : công lao ; kết quả, thành tựu, sự nghiệp, như công danh 功名 , công dụng 功用 ...)

Còn tên tác phẩm của Hồ Sĩ Dương mặt chữ Nho là : 大越黎朝帝王中興功業實錄 Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thật lục : sách viết đúng về sự nghiệp trung hưng của các vua Lê chúa Trịnh của Đại Việt.

Tất nhiên không rõ nghĩa thì phải “chăm chú tra từ điển”. Quyển từ điển mà Ph – NĐD đã “rất vui mừng khi thấy...” cũng có chua đủ hai nghĩa của từ ngữ công nghiệp như hình dưới đây :

Hình 9 : chụp nguyên bản Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn Ngữ Học, nxb Đà Nẵng, 2002 có mục từ công nghiệp

Trong từ điển, những từ nhiều nghĩa thường được viết chung vào một mục từ, mỗi nghĩa được đánh số để phân biệt ; còn những từ đồng âm dị nghĩa thì viết thành các mục từ khác nhau và cũng được đánh số để phân biệt (thứ tự trước sau của các từ hoặc của các nghĩa trong một từ là theo ý chủ quan của nhà làm từ điển, dù có đề ra những tiêu chí nào đó ; thậm chí những tiêu chí đó cũng vẫn là theo chủ quan của nhà làm từ điển). Trong Từ điển tiếng Việt của VNNH dẫn trên, hai từ ngữ công nghiệp được tách riêng trong hai mục từ khác nhau, cho thấy hai từ ngữ này là hai từ ngữ cùng âm khác nghĩa, mà không phải là một từ nhiều nghĩa.

Vậy phải áp dụng thế nào vào từ ngữ tạo vật” ?

Theo cách viết của người thời nay, người ta có thể thêm “giả”, thậm chí “chúa / chủ” vào sau “tạo vật” (thành “tạo vật giả” hoặc “tạo vật chúa / tạo vật chủ”) để cho rõ nghĩa “tạo vật (giả / chúa)” có nghĩa là “đấng dựng nên các vật” (đã trình bày ở phần II, mục B trên). Nhưng từ ngữ “tạo vật” này đã có “bề dày” về thời gian là hơn mười thế kỉ tính từ khi xuất hiện, và ít nữa cũng hơn năm (5) thế kỉ tính từ khi “du nhập” vào tiếng Việt (căn cứ trên các văn bản vẫn tồn tại khách quan), thì các tác giả đã quen dùng “tạo vật” với nghĩa “đấng tạo nên các vật” mà không cần “giả” hay “chúa”, hoàn toàn giống cách dùng từ ngữ “tạo hóa”.

Vì thế ta có mệnh đề 1 : “tạo vật = đấng tạo nên các vật”.

Chỉ từ khi xuất hiện các bản dịch về Phụng vụ (cho là từ năm 1965), từ ngữ “tạo vật” này mới được gán cho một nghĩa mới đối nghịch hẳn với nghĩa vốn có,

ta có mệnh đề 2 : “tạo vật = vật được tạo thành”.

Như thế, “tạo vật” của mệnh đề 1 và “tạo vật” của mệnh đề 2 không thuộc lớp “những từ cùng âm khác nghĩa”, vì khi viết “tạo vật” dù bằng chữ Quốc ngữ hay chữ Nho, thì “tạo vật 造物 ” vẫn cứ là “tạo vật 造物 ”. Chúng cũng không thể thuộc lớp “từ có nhiều nghĩa”, vì nghĩa “đấng tạo nên các vật” và nghĩa “vật được tạo thành” không hề là những nghĩa phái sinh của nhau. Vậy phải đưa vào “từ điển” như thế nào ? Chỉ có một cách giải quyết : xác nhận một nghĩa là đúng, và đương nhiên nghĩa còn lại là sai, và nghĩa sai phải bị loại bỏ. Từ ngữ có thay đổi nghĩa thế nào đi nữa, cũng không thể trở thành nghĩa đối chọi, trái ngược hẳn với nghĩa ban đầu. Vì thế, một từ ngữ vốn mang nghĩa chỉ về nguyên nhân không thể nhờ một chữ “cũ” đơn giản mà bỗng chốc nghĩa của từ ngữ đó lại hóa ra chỉ về kết quả. Thí dụ từ ngữ Nôm “bố” trong tiếng Việt vốn mang nghĩa là người cha từ rất lâu (được công nhận là từ thời Phùng Hưng, nửa cuối thế kỉ VIII) nay bỗng từ ngữ “bố” này “đột nhiên” mang “nghĩa mới” là đứa con, thì không lẽ từ ngữ đó được ghi vào trong từ điển, thí dụ thế, là : bố : 1. (cũ) người đàn ông trực tiếp sinh ra con cái trong gia đình. 2. người được sinh ra trong gia đình bởi một cặp cha mẹ”. Lại cũng không thể vì điều này được ghi trong “từ điển”, mà “từ rày về sau” ai cũng dùng và phải dùng từ ngữ “bố” với nghĩa “mới” mà sai là “đứa con”. Bất kì người Việt nào cũng luôn luôn là “con” của cha mẹ mình ; người ấy, nếu là đàn ông, chỉ có thể là “bố” của những đứa con khác do chính người ấy sinh đẻ ra, và cả khi đó người ấy vẫn cứ là “con” của những người đã sinh đẻ ra mình ! Đúng là đúng, mà sai là sai. Ở đây không có chỗ cho sự “hiểu theo cảm tính” (= đinh ninh là như thế, ngỡ là như thế, tưởng là như thế), không dùng đến những khái niệm rằng đó là “chọn lựa của trái tim” hay “chọn lựa của hồn tông đồ”. Trái tim hay hồn tông đồ cũng không thể can thiệp vào ngôn ngữ chung. Trái lại, điều phải làm chính là chọn lựa ngôn ngữ chung, với các nghĩa đã được xác nhận từ bao đời nay của từ ngữ, để diễn tả điều mà trái tim hay hồn tông đồ muốn diễn tả.

Ph – NĐD còn dẫn thêm :

... các tu sĩ Việt Nam ở Đài Loan, những người giỏi Hoa ngữ và tiếp xúc trực tiếp với Hoa ngữ trong thần học và phụng vụ ... và soạn quyển Từ Điển Thần Học Tín Lý Anh-Việt, trong đó có các định nghĩa :

creator : Chúa tạo vật, Đấng tạo hoá, Đấng sáng tạo.

creature : Thụ tạo vật, vật được tạo dựng, tạo vật, kẻ được tạo dựng.

Vậy thì “tạo” nào là “tạo dựng”, và “tạo” nào là “được tạo dựng” ?

Vì :

nhóm phiên dịch ý thức rằng những hạn từ mà thần học Hoa ngữ đang dùng ở Đài Loan không thể coi là tiêu chuẩn, nhưng chỉ để tham khảo hy vọng có thể làm giầu thêm kho tàng ngữ vựng thần học Việt Nam phần nào chăng (sic),

nên phân tích dưới đây cũng không dùng đến “những hạn từ mà thần học Hoa ngữ đang dùng”, chỉ phân tích theo tiếng Việt.

Vì cả 4 từ ngữ Việt đều được dùng để dịch cùng một từ ngữ Anh, nên ta có định nghĩa (1) :

creature =

= th to vt = vật được tạo dựng = to vt = kẻ được tạo dựng (1)

hay :                                thụ tạo vật = tạo vật (2)

từ (2) suy ra :                         thụ tạo = tạo (3)

có nghĩa là :               được tạo dựng = tạo dựng (!)

Tức là định nghĩa (1) tự mâu thuẫn.

Nên phải kết luận rằng : thêm “tạo vật” để dịch creature trong tiếng Anh ở định nghĩa (1) trên đây thì thật là sai lầm, tức là những người soạn từ điển, dù giỏi Hoa ngữ, nhưng đã đánh đồng “tạo” với “thụ tạo”. Từ đó suy ra :

hoặc : được tạo dựng cũng là tạo dựng (khi đó thì “vật được tạo dựng” cũng chẳng khác gì “Đấng tạo dựng”), tức là dẫn đến sai lầm rất phạm thượng (“con người chính là Thiên Chúa”) không thể chấp nhận ;

hoặc : định nghĩa trong từ điển Thần học Tín lý Anh - Việt nói trên về chữ creaturesai.

Các vị soạn bộ từ điển Thần học Tín lý Anh - Việt này có lẽ cũng biết như thế ; nhưng tại sao các vị lại viết ra như dẫn trên đây, thì chỉ các vị mới có câu trả lời. Ngoài ra như đã nói ở phần II, mục A, trong số các người Việt Công giáo, hãy nói là vào khoảng đầu thế kỉ XX, có lẽ không ít người có trình độ Nho học nếu không giỏi hơn thì cũng không thể kém hơn các vị tham gia soạn bộ từ điển nói trên đây.

Còn LHN phán đoán rất mạnh miệng rằng (sic) :

tự điển mà không ghi nghĩa “tạo vật” là “loài thụ tạo,” ... chỉ là các tự điển ngu ngốc mà thôi

Thử xem câu ca dao :

Trăm năm bia đá thì mòn,

Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.

Định nghĩa (“cũ”) trong quyển từ điển mà Ph – NĐD đã “rất vui mừng...” :

mòn : bị mất dần từng ít một trên bề mặt do cọ sát nhiều

và :

trơ : có khả năng không biến đổi hình dạng, trạng thái, tính chất trước mọi tác động mạnh từ bên ngoài.

Qua hai định nghĩa này, có thể tạm phỏng đoán ý nghĩa câu ca dao trên là :

Bia đá, như bia nghè cho tới bia mộ, dù làm bằng thứ vật liệu rất trơ lì, nhưng nhiều lắm thì chỉ chừng trăm năm đã bị mòn rồi. Trái lại, bia miệng tiếng đời, dù làm bằng thứ vật liệu vô hình, không thể sờ mó xem thử nó bị hao mòn thế nào với thời gian, vậy mà ít nhất dễ cũng khoảng ngàn năm nó cứ vẫn trơ trơ.

Nay vì có câu hát rằng : Như phiến đá mòn trơ với thời gian ...

nên cần phải sửa các định nghĩa (“cũ”) trên thành “định nghĩa mới” :

mòn : không bị suy suyển dù thời gian lâu đến đâu thì cũng vẫn thế

và :

trơ : bị hao hụt vật chất ở bề mặt dần dần từng chút từng chút

Tại sao ? Tại vì, theo LHN, một từ có thể có rất nhiều nghĩa và ý nghĩa của một từ hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian (thêm hay bớt). Từ câu hát trên, nay thấy được rằng : “đá” là thứ vật liệu đã mòn lại trơ, nên từ nay về sau, hễ quyển từ điển tiếng Việt nào không có “định nghĩa mới” của “mòn” và “trơ” tương tự trên đây, thì đều, theo LHN, là những “quyển từ điển ngu ngốc”. Còn những quyển nào cứ giữ lại những định nghĩa tương tự “định nghĩa cũ” thì đều, vẫn theo LHN, là những quyển “tự điển “ăn cắp” và khinh thường người dùng tiếng Việt, không đáng để nói đến”.

Cha Trần Văn Hiến Minh viết trong Từ-điển & danh-từ triết-học, Tủ sách Ra Khơi, 1966 :

Tạo vật (créature). Danh từ này, có người dùng để chỉ vật được Thượng-Đế sáng tạo. Nhưng để rõ hơn, người ta dùng chữ thụ tạo. Xch này. Có người lại hiểu là tạo nên vật, tức là Đấng Tạo hóa. Thiết nghĩ chỉ nên dùng hai chữ Tạo hóa (Créateur) và thụ tạo (créature).

Có nghĩa là cha Trần Văn Hiến Minh không nhìn nhận nghĩa “vật được Thượng-Đế sáng tạo” của từ ngữ “tạo vật”. Các chữ “có người dùng để chỉ...” là kiểu nói tế nhị, vì có những nhà dịch thuật đồng thời với ngài đã dùng sai, nhưng ngài không muốn nói thẳng ra. Các chữ “Có người lại hiểu là...” cho thấy rõ ràng ngài có biết / nghe / đọc về từ ngữ “tạo vật” được dùng với nghĩa đúng của những tác giả khác (ít nhất thì cũng trong kinh Cầu chữ). Câu kết “Thiết nghĩ chỉ nên dùng...” cho thấy đề nghị của cha rất rõ ràng : nếu không biết rõ nghĩa của chữ nào, thì đừng nên dùng chữ ấy.

Đề nghị này rất đúng :

1. Nếu người thời nay không còn quen thuộc với cách dùng “tạo vật” (không có Đấng / Chúa / Vị... đi kèm) với nghĩa vốn có là “Đấng tạo nên các vật”, thì, cách riêng đối với các tác giả Công giáo, hãy nên mạnh dạn bỏ hẳn từ ngữ này khi muốn chỉ về Đấng tạo hóa (dù người ta vẫn quen với cách dùng từ ngữ “tạo hóa” cũng không có Đấng / Vị / Chúa... đi kèm). Còn khi gặp / gặp lại từ ngữ đó trong các sách vở như của Nguyễn Trường Tộ, Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh..., ta vẫn có thể hoàn toàn hiểu theo cách các tác giả đó hiểu là “tạo vật” chính là “Đấng tạo nên các vật” mà không phải băn khoăn.

2. Bên cạnh đó, cũng không thể dùng (sai) “tạo vật” với nghĩa là “vật được tạo thành”, vì sẽ gây trở ngại : người Việt Công giáo hiểu một đàng (và đàng sai), còn người Việt không Công giáo lại hiểu một đàng khác.

Tuy tác giả Ph – NĐD nhìn nhận việc dùng từ ngữ “thụ tạo” là “một chọn lựa chính xác” (sic), và “tán thành” sự chọn lựa này, nhưng lại nói thêm rằng vẫn “yêu mến từ ngữ tạo vật” (sic) vì cho rằng nó vẫn cứ có nghĩa là “vật được tạo thành”, và đưa ra một nhận xét rằng :

... tạo vật là từ quen thuộc không những với người Việt Nam thuộc các tôn giáo bạn mà còn với người Việt Nam trên khắp thế giới, trong khi đó thụ tạo không có trong bất kỳ từ điển nào ở ngoài đời ... (sic)

đồng thời vẫn loanh quanh luẩn quẩn với “tạo”“vật” để cố gắng cắt nghĩa “tạo vật” mới là từ ngữ “phát xuất từ trái tim, có cảm xúc của niềm tin, diễn tả rõ ràng hơn thân phận được tạo dựng của con người và nói lên thiết tha hơn tâm tình của người biết rằng mình chẳng là gì trước mặt Đấng Tác Tạo” (sic), chỉ vì “vật” mới là từ ngữ “nói lên được sự nhận-biết-mình-mọn-hèn” (sic).

Quả là những lời lẽ (luẩn quẩn) “phát xuất từ trái tim”, bất chấp ý nghĩa đúng đã được xác định cả ngàn năm, nên không còn gì để nói. Chỉ cần biết rằng, tại sao “tạo vật là từ quen thuộc không những với người Việt Nam thuộc các tôn giáo bạn mà còn với người Việt Nam trên khắp thế giới”, thì nguyên nhân đã trình bày ở trên, xin không nhắc lại. Còn “thụ tạo không có trong bất kỳ từ điển nào ở ngoài đời” thì quá dễ hiểu.

Từ ngữ “thụ tạo” rõ ràng không phải loại từ phổ thông, ngoài những kinh sách “nhà đạo”, thử hỏi mấy ai có nhu cầu dùng đến. Lại nữa, khi người ta không nhìn nhận có một Đấng (nào đó) tạo dựng mọi vật mọi loài, trong đó có cả loài người, thì rõ ràng người ta lại cũng không thể nhìn nhận mọi loài, trong đó có cả loài người, đã được (ai đó / vị nào đó / đấng nào đó) dựng nên. Không chỉ từ ngữ “thụ tạo”, còn rất nhiều từ ngữ khác cũng không thể tìm thấy trong “bất kỳ từ điển nào ở ngoài đời” (như : nhập lễ, thông chuyển, vật mọn, cáo giải, phụng vụ...). Và đương nhiên không phải từ ngữ nào không được ghi nhận trong các từ điển thì đều không tồn tại (và xin nói rõ : điều này không thể áp dụng cho “tạo vật là vật được dựng nên” vì những lí do đã trình bày).

Về mặt cấu trúc từ ngữ, “thụ tạo” có kết cấu : thụ + một động từ, trong đó thụ cho biết động từ đó mang nghĩa thụ động. Đây là cấu trúc hết sức quen thuộc, có thể dẫn ra hàng loạt thí dụ, như : thụ phong = chịu phong, được phong ; thụ giáo / thụ huấn = chịu sự dạy dỗ, được dạy dỗ, được huấn luyện ; thụ thưởng = được thưởng ; thụ tẩy = được / nhận / chịu rửa... Quen hay không quen không phải là vấn đề ở đây. Chưa quen dùng lâu sẽ thành quen, “tạo vật = vật được dựng nên”sai, nhưng vì nghe lâu, dùng lâu đã trở thành quen đó thôi. Chỉ có điều là nên làm cho quen với cái đúng, đừng làm cho quen với cái sai.

Xin mở một dấu ngoặc : trước đó, Ph – NĐD còn nhận định :

Chúng ta ... đã không ngại dung nạp thuật ngữ của tôn giáo bạn : “Con người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh

Không biết “tôn giáo bạn” mà Ph – NĐD nói đến ở đây là tôn giáo nào. Có điều “chúng sinh” là từ ngữ “rất cũ kĩ” từng xuất hiện trong sách vở Nho học. Thí dụ : sách Lễ Kí (= kinh Lễ, một trong Ngũ Kinh mà các nhà Nho trước kia buộc phải học, được viết muộn lắm cũng vào thế kỉ III trước Công nguyên, và Phật giáo đến Trung Hoa sớm lắm cũng vào khoảng năm 60, nghĩa là còn sau thời Hai Bà Trưng ở nước ta), thiên Tế nghĩa, có :

眾生必死 , 死必歸土 chúng sinh tất tử, tử tất quy thổ (tạm dịch : mọi vật sống ắt phải chết, chết ắt trở về đất)

Trong đó chúng sinh được Trùng biên Quốc ngữ từ điển tu đính bản 重編國語辭典修訂本 của bộ Giáo dục Đài Loan định nghĩa là : 一切有生命的動植物 nhất thiết hữu sinh mệnh đích động thực vật (tạm dịch : tất cả các vật sống như động vật, thực vật).

Ph – NĐD còn “lo ngại, nếu một ngày nào đó lời của bài hát phải đổi thành “Lạy Chúa con chỉ là thụ tạo”, các nhà thần học sẽ gật đầu, nhưng trong cộng đoàn có còn ai cùng hát với con nữa không ?” (sic).

Té ra tác giả lo rằng khi sửa theo điều đúng thì sẽ bị cộng đoàn bỏ rơi xa lánh ? Xin thưa riêng với nhạc sĩ :

1. Chẳng có gì phải lo, nếu mình làm điều đúng ;

2. Khi cộng đoàn thấy nhạc sĩ khiêm nhường và vâng phục bề trên của mình để sửa điều sai, thì chẳng những họ không ngoảnh mặt đi, mà trái lại họ còn ngưỡng mộ và hết lòng ủng hộ.

 

IV. Sai và sửa sai

 

Kinh Tiền tụng của Kinh nguyện Thánh Thể IV được Ph – NĐD dẫn ra từ Sách lễ Rôma 1971, đã được sửa lại :

SLR 1971 : ... và nhiều tạo vật vui hưởng ánh sáng huy hoàng của Cha ...

So sánh với bản dịch đã được sửa lại :

Nghi thức Thánh Lễ (SLR 2005) : ... và cho nhiều thụ tạo vui hưởng ...

Còn các sách Bài Đọc đến nay chưa có bản thay thế chính thức.

Cũng có thể xem thêm các bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Việt của anh em Tin Lành. Ở đây xin dẫn ra ba bản :

1). Bản dịch năm 1925, được gọi là Bản truyền thống (có sự cộng tác của học giả Phan Khôi) ;

2). Bản dịch năm 2002, được gọi là Bản dịch mới (New Vietnamese Bible, viết tắt là NVB), do mục sư Trần Đào chủ biên ;

3). Bản dịch năm 2012, cũng do mục sư Trần Đào chủ biên.

Các câu Thánh Kinh chọn ra để đối chiếu trong ba bản dịch này là Rom 8:19-22, là các câu có từ ngữ creatura (bản Nova Vulgata) ; từ ngữ tiếng Việt tương ứng với creatura trong ba bản này như sau :

Câu TK              Bản 1925         Bản 2002         Bản 2012

Rom 8:19           muôn vật         tạo vật             muôn loài thọ tạo

Rom 8:20           muôn vật         tạo vật             muôn vật

Rom 8:21           muôn vật         tạo vật             muôn vật

Rom 8:22           muôn vật         tạo vật             muôn vật

Có thể thấy, trong Bản dịch 2002, ý các dịch giả Tin Lành muốn có bản dịch tiếng Việt dùng chung một số từ ngữ với anh em Công giáo, nên mọi chữ “muôn vật” trong Bản truyền thống đều được thay bằng “tạo vật” (trong các câu Rom 8:19-22 này). Nhưng sau đó, thấy từ ngữ “tạo vật” dùng ở đây là sai, nên Bản dịch 2012 đã sửa lại như Bản truyền thống ; hơn thế, từ ngữ “muôn vật” trong Bản truyền thống còn được sửa thành “muôn loài thọ tạo.

Bản dịch Thánh Kinh Latin Phổ thông Vulgata của thánh Giêrônimô cũng đã được sửa chữa thành bản Nova Vulgata hiện hành trong Hội thánh Công giáo.

 

Sai lầm là thuộc tính của con người, vì con người chỉ là “thụ tạo” chứ không hề là “tạo vật”. Đừng bảo rằng “do thiếu kiến thức về ngôn ngữ học” mà việc “đòi hỏi người dùng tiếng Việt ngày nay phải « sửa sai » chuyện nực cười (sic, LHN) ! Sai thì phải nhận là sai, và phải sửa, nhất là khi cái sai đó lại từ những người có những vị trí quan trọng và / hoặc có ảnh hưởng đến cả cộng đoàn rộng lớn ; chẳng có gì là nực cười. Xin nhắc lại lời Chúa Giêsu dạy : Sit autem sermo vester : “Est, est”, “Non, non” ; quod autem his abundantius est, a Malo est (Mt 5:37 ; Nhưng lời của các ngươi phải là : “Phải là phải”, “Không là không” ; những gì đơm đặt đều bởi Ác thần mà ra).

 

Lễ thánh Maria Mađalêna – 2023

 

Bùi Ngọc Hiển

 

Chú thích :

1. Bài của LHN nhắm trực tiếp đến cha Huỳnh Trụ và ít vị khác (... có từ “tạo vật” bị linh mục Huỳnh Trụ và cả ủy ban thánh nhạc của HĐGM Việt Nam cho là sai nghĩa ... – sic), với những câu như : ... họ (tức là cha Huỳnh Trụ và Ủy ban Thánh Nhạc của HĐGM VN) còn căn cứ vào một số tự điển không có nghĩa “loài thụ tạo” để củng cố lập luận của họ. Cách lập luận “đúng sai” của họ cho thấy họ không hiểu về các nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ học ... (sic) trong khi LHN tự giới thiệu : Tôi ở trong ngành ngôn ngữ học và chuyên về dịch thuật (sic).

2. Saigon, Imprimerie & Librairie Nouvelles Claude & Cie, 1897 (trang trong lại ghi số năm là 1896).

3. Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập III, NXB Khoa học xã hội, 2005.

4. Thơ văn Lý Trần, tập III, NXB Khoa học xã hội, 1978.

5. Nguyên văn chữ Nho của Phạm Đình Hổ dẫn trên lấy ở bản Maurice Durand chép tay theo bản của thư viện Viễn Đông bác cổ, kí hiệu A1297 ; bản của M.D. không ghi tên từng bài, đoạn trong bài Học thuật ở trang 13b, đoạn trong bài Cách uống chè ở trang 18a ; bản chép tay khác lưu tại Thư viện Quốc Gia, kí hiệu R1609 có đề ở trang đầu : 城泰十八年 , 歲次丙午 , 坤月 , 大雪後書成 Thành Thái thập bát niên, tuế thứ Bính Ngọ, Khôn nguyệt, Đại tuyết hậu thư thành = viết xong vào ngày sau tiết Đại tuyết, tháng Khôn [tức là tháng Mười âm lịch], năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ tám [tức là năm 1906], không đánh số trang, bản R1609 này có ghi tên từng bài, nhưng bỏ sót nhiều bài, như bài Cách uống chè, thứ tự các bài không khớp với bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến.

Bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến được Nguyễn Quảng Tuân hiệu đính và chú thích, nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 1989 (một hình thức tái bản), đoạn dẫn trên trong bài Học thuật được in lại ở trang 28 như sau : ... về sau rút cục lại suốt đời dở dang, chẳng làm nên công cán gì. Bấy giờ mới oán trách tạo vật bất công, đổ tội cho quan trên không biết kén dùng đến mình ...

Đoạn trong bài Cách uống chè, trang 34 : ... Cái vui về non nước bè bạn, tạo vật chưa dễ đã cho mọi người được hưởng, mà còn có phần lại khó hơn lợi lộc với vinh danh ...

6. Nguyệt san Hằng-nghị của hội dòng Congregatio Discipulorum Domini – CDD – còn gọi là hội dòng Môn đồ Chúa, do hồng y Celso Constantini (1876‐1958), tên tiếng Hoa là 剛恆毅 , âm Nho : Cương‐hằng‐nghị, sáng lập.

7. Cha Ngô Kim Thụy biên dịch từ điển này để đáp lại lời mời gọi của Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII trong tông hiến Veterum Sapientia ( 古人的智慧 Cổ nhân đích Trí tuệ) và của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI trong tông thư Summi Dei Verbum ( 至高天主聖言 Chí cao Thiên Chúa Thánh Ngôn).

8. Chuyện “đánh rơi chữ” kiểu này dường như là một “truyền thống” bên Công giáo. Có thể xem một từ ngữ khác : “tử đạo”, vốn có dạng đầy đủ là “tử vì [Nho đọc : vị] đạo”, mặt chữ Nho / Nôm đều viết là 死爲道 . Người Hoa không dùng cả tử đạo lẫn tử vị đạo, mà dùng từ ngữ khác : tuẫn đạo 殉道 hoặc tuẫn giáo 殉教 . Thí dụ trong Thiên Chúa giáo Anh – Hán tụ trân từ điển : Chinese Martyrs được dịch là 中國殉道聖人 Trung quốc tuẫn đạo thánh nhân hoặc 中華殉道先烈 Trung Hoa tuẫn đạo tiên liệt, tức là không có vị hay gì hết. Vậy thì trong tử vì đạo ta cũng “đánh rơi” / vị đi cho gọn, thành ra còn lại có tử đạo, thì cũng tương tự thế chứ gì.

Nhưng mà không, tuẫntử là hai từ khác hẳn nhau.

Tuẫn có nghĩa là “chết , chết cho, chết theo [ai đó hoặc điều gì đó]”. Thí dụ : tuẫn quốc = chết vì nước (= vị quốc vong thân), tuẫn giáo / tuẫn đạo = chết vì đạo, tuẫn phu = chết theo chồng, tuẫn danh = chết vì danh dự, tuẫn lợi = chết vì lợi lộc...

Tử chỉ có nghĩa là “chết” chung chung... Không thể đem tử thay cho tuẫn ở các thí dụ trên để được những “từ ngữ tương đương”. Do đó, muốn diễn tả ý “chết vì” mà dùng với “tử” để có từ ngữ có nghĩa tương ứng với tuẫn đạo, thì từ ngữ đó chỉ có thể là tử vị đạo (hoặc : tử vì đạo) ; còn tử đạo sẽ có nghĩa là : con đường chết (Ph – NĐD), hay tiêu cực hơn : đạo [đưa tới] sự chết / đạo [của] sự chết.