Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019

KINH THÁNH TRONG THÁNH LỄ - 2b

KINH THÁNH TRONG THÁNH LỄ

Bùi Ngọc Hiển

Bài 2 (tiếp theo)

















in Chinese do Joshia Goddard (1813 – 1854) in năm 1853 vẫn còn mang tựa chữ Nho là 聖經新遺詔全書 [Thánh Kinh Tân Di Chiếu toàn thư]). Trong khi đó, các tên gọi Cựu / Tân Ước xuất hiện muộn hơn, như năm 1854 có bản 約全 [Tân Ước toàn thư] do Hương Cảng Anh Hoa thư viện ấn loát. Không rõ trước đó có bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Hoa nào đã mang tên là Cựu / Tân Ước không. Các sách vở Tàu có đề cập đến địa danh New York rất có thể cũng do các giáo sĩ Tây phương soạn hoặc dịch, có thể còn muộn hơn việc dịch Kinh Thánh, nên không muốn phiên dịch New York thành Tân Ước kiểu như Tân Tây-lan để khỏi trùng lẫn với tên sách.

Về sau một số danh xưng có thay đổi trong cách phiên âm (dĩ nhiên là đối với người Tàu), như :

Singapore được phiên âm lại là 新加坡 xīnjiāpō ...

Hoặc tên các châu được rút gọn :

阿美利伽             thành měi : châu Mĩ ;
阿非利伽             thành fēi : châu Phi ;
亞細亞                 thành : châu Á ;
歐羅波                 thành ōu : châu Âu.

Đó là những danh từ về “phần đời”. Còn những danh từ “nhà đạo” thì tình hình cũng tương tự. Ở đây chỉ nêu ít nhiều tên các vị thánh trong Kinh cầu các Thánh trích ra từ Thánh giáo Nhật khóa, in năm 1715 (năm Ất Vị, Khang Hi thứ 54) tại nhà in Toàn Năng đường, Quảng Châu.

Tên Latin                    Chữ Nho                      giọng Tàu                    giọng Ta
Christus                      契利斯督                  qìlìsīdū                       khế lị tư đốc
Jesus                           耶蘇                           yēsū                            da tô
Maria                          瑪利亞                      mǎlìyā                         mã lị á
Michaël                       彌額爾                      míyáěr                         mi ngạch nhĩ
...
Ioannes                        若翰                          ruòhàn                         nhược hàn
Ioannes                         若望                         ruòwàng                      nhược vọng
Petrus                          伯多祿                       bóduōlù                      bá đa lộc
Paulus                         保祿                            baǒlù                          bảo lộc
...
Vincentius                  味增德                       weìzēngdé                   vị tăng đức
Benedictus                  本多                           běnduō                        bản đa
Dominicus                  多敏我                       duōmǐnwǒ                   đa mẫn ngã
...
Về sau, có khá nhiều thay đổi trong cách phiên âm, thí dụ :

契利斯督 (Christus) đổi thành 基利斯督 jīlìsīdū [cơ lị tư đốc], rồi nói gọn thành 基督 jīdū [cơ đốc] ;

本多 (Benedictus) đổi thành 本篤 běndǔ [bản đốc] ;

多敏我 (Dominicus) đổi thành 多明我 duōmíngwǒ [đa minh ngã] ...

Phiên âm Dominicus sang tiếng Ta mà thành đa minh (ngã) như vậy được gọi là kiểu phiên âm qua các tiếng / chữ trung gian, mà ở đây là tiếng Tàu. Trước kia đã từng có nhiều người (như Phạm Quỳnh, Dương Quảng Hàm...) lên tiếng chỉ trích cách phiên âm như thế. Thôi thì dù sao vào thời điểm kiểu phiên âm đó bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam thì có thể tạm chấp nhận, vì các cụ ta, vừa giã từ thứ văn học đã gắn bó lâu đời là Nho học, mới chập chững làm quen với Tây học, thì trình độ Pháp ngữ, nói thí dụ thế, không đủ để đọc trực tiếp các sách vở viết bằng các ngôn ngữ Tây phương, đành phải qua trung gian là các bản dịch tiếng Hoa của các dịch giả Tàu. Việc phiên âm đó bị phàn nàn, vì muốn tìm về nguồn gốc từ ngữ từ những dạng được phiên âm kiểu đó thì không biết đâu mà lần.

Điều căn bản trong việc người Tàu phiên âm các từ ngữ không thể dịch như trình bày trên, là người ta chỉ cốt tìm một chữ (Nho) nào đó có âm gần giống với từng âm tiết của từ ngữ đem phiên âm, không quan tâm chữ (Nho) đo có nghĩa gì. Thí dụ 多明我 được dùng để phiên âm Domingo trong tiếng Tbn, vì những chữ đó có âm Tàu là duōmíngwǒ, coi là gần giống âm gốc. Vì thế từng thành tố trong “tên” theo mặt chữ Nho không còn mang nghĩa riêng của nó, đồng thời, mỗi một chữ Nho trong “tên” chỉ có giá trị tương đương một vần (một âm tiết) trong tiếng gốc. Do đó, người ta không buộc phải dùng đúng những chữ như vậy, mà có thể chọn những chữ khác. Thí dụ tên các sách KT Trung Hoa giữa anh em Công giáo và anh em Tin Lành rất khác nhau. Điều đó chứng tỏ việc phiên âm bằng chữ Nho đọc theo giọng Tàu khác hẳn cách gọi tên truyền thống của người Tàu cũng như người Việt : mỗi thành tố của một cái “tên truyền thống” đều có nghĩa nhất định, nên tên người Việt và tên người Tàu viết theo âm Hán – Việt bằng chữ Quốc ngữ phải viết hoa tất cả các thành tố, đôi khi thêm gạch nối, nếu đó là những tên họ kép hoặc tên gọi kép. Thí dụ, tên của một vị giám mục Trung Hoa : 陳日君 , là một danh xưng được viết bằng ba chữ Nho, nhưng mỗi chữ đều có giá trị riêng với nghĩa riêng của nó. Vậy khi ba chữ này viết theo âm Hán – Việt bằng chữ Quốc ngữ (theo quy ước viết tên riêng hiện nay), thì phải viết Hoa cả ba là Trần Nhật Quân, mà nếu xác định được tên gọi của ngài là một tên kép, như khi Latin-hóa âm Tàu là Zen Ze-kiun, thì có thể viết thành Trần Nhật-quân hoặc Trần Nhật-Quân.  Cách viết hiện nay bỏ tất cả các dấu gạch nối là một sai lầm nghiêm trọng, chẳng qua vì không biết làm sao xác định đâu là họ kép, đâu là tên gọi kép, đâu là chữ đệm.

Nhưng đối với các từ ngữ được người Tàu phiên âm bằng mặt chữ Nho, nay viết theo âm Hán – Việt bằng chữ Quốc ngữ, thì phải căn cứ vào dạng gốc của các từ ngữ đó mà viết hoa hay không, có dấu gạch nối hay không. Thí dụ mỗi một chữ Nho 伯多祿 đều có nghĩa riêng : [bá] là anh của cha mình, người bác, [đa] là nhiều, 祿 [lộc] là những sự lành được hưởng, nhưng khi người Tàu dùng cả ba chữ này để phiên âm cùng một tên riêng Pedro của tiếng Tbn, thì những nghĩa riêng đó không tồn tại nữa : không ai lại đi hiểu 伯多祿 là “người bác nhiều lộc” cả ; đồng thời mỗi chữ biểu thị một âm nào đó của từ gốc Pedro (coi như pe-d-ro), mà từ gốc này là từ duy nhất. Nếu coi từ Pedro dạng trong tiếng Tbn tương đương với Petrus trong Latin, thì xét về nghĩa, từ duy nhất Petrus sẽ có tương đương cũng bằng từ duy nhất trong chữ Nho là , đọc theo giọng Tàu là shí [thạch = đá]. Do đó, ba chữ 伯多祿 nếu viết theo âm Hán – Việt bằng chữ Quốc ngữ, thì chỉ chữ đầu tiên (biểu thị âm tiết Pe-) mới phải viết hoa, hai chữ sau (biểu thị các âm tiết -d- và -ro) rõ ràng không những không được viết hoa, mà giữa ba chữ đó phải viết với dấu gạch nối là : Bá-đa-lộc. Những cách viết như Bá Đa Lộc, thậm chí Bá-Đa-Lộc, đều sai. Cũng sai như vậy khi viết dạng phiên âm Hán – Việt của Abraham 亞巴郎Á Ba Lang, của Adam 亞當Á Đang, của Jesus  là Da Tô, của Israel 以色列Dĩ Sắt Liệt (sic. ; âm Hán – Việt của sắc)..., như cách viết trong Từ điển Công giáo 500 mục từ của Tiểu ban Từ vựng, UB Giáo lý Đức tin, HĐGMVN, tái bản lần I, 2011. Ấy là chưa kể có cả những dạng phiên âm của CGKPV cũng bị một số người viết Hoa như thế : Khác Gai, Kha Ba Cúc, Gio An... (không có dấu gạch nối giữa các vần).

Khi người Tàu dùng, thí dụ, ba chữ Nho 亞巴郎 để phiên âm chữ Abraham, chẳng qua là đã chọn lấy trong các chữ Nho có âm (theo giọng Tàu) tương đối gần với âm của “từ gốc” của các tiếng Tây phương, nhằm giúp đọc những từ ngữ đó cho sát với “âm gốc”. Tuy nhiên âm của các chữ Nho trong tiếng Tàu không biểu thị được mọi âm trong các tiếng Tây phương, nên có thể nói với cách phiên âm như thế trong phần lớn các trường hợp, chỉ giúp cho người Tàu đọc các từ ngữ Tây phương (không thể dịch) một cách gần đúng mà thôi. Thậm chí cách phiên âm giọng Tàu dùng các chữ cái Latin cũng vậy (5). Điều này khác hẳn với giọng người Việt, có khả năng đọc rất tốt nhiều tiếng Tây phương, nhất là khi những từ ngữ Tây phương cũng viết bằng các chữ cái Latin như cách viết chữ Quốc ngữ. Người Việt nói chung có thể đọc hoàn toàn chính xác những từ ngữ như Abraham, Pedro, Petrus... khi nhìn thấy những chữ này trong bản văn chữ Quốc ngữ. Mà nếu không đọc được “như Tây”, thì người Việt cũng có thể đọc khá sát theo cách như “A-bờ-ra-ham, Pê-đờ-rô, Pê-tờ-rút-xờ”...

Nhưng có những suy nghĩ cho rằng viết Abraham, Pedro, Petrus... trong bản văn chữ Quốc ngữ thì e rằng làm khó cho người đọc, mà viết A-bờ-ra-ham, Pê-đờ-rô, Pê-tờ-rút-xờ... thì “nhà quê”, cho nên lại quay lại kiểu dùng những tiếng mang âm Hán – Việt cho nó vừa “nho nhã”, “thanh tao”, lại vừa “dễ đọc”. Ấy chính là kiểu phiên âm qua một thứ chữ làm trung gian, cho nên mới tồn tại những dạng như “Vinh Sơn”, “Biển Đức”, “Âu Tinh”, “Cát Minh”... Kiểu này đã xuất hiện chính thức trong sách vở Công giáo, mà quan trọng và điển hình hơn cả lại chính là bản dịch SLR 1992 của nhóm phiên dịch CGKPV, là những dịch giả có khuynh hướng triệt để từ chối gần như 100% các phiên âm qua trung gian Latin, nhất định phiên âm trực tiếp từ tiếng Hipri khi dịch CƯ, và từ tiếng Hi-lạp khi dịch TƯ.

Gần đây có người còn “sáng tác” ra một phiên âm rõ hay là i-nhã. Có lẽ người này dùng phần mềm gõ tiếng Việt trên máy tính kiểu telex, thế rồi khi mới gõ được i-nha, kế đó định gõ tiếp -xi-ô, nhưng giữa nhax lại quên gõ dấu gạch nối, thế là tự động nhận được ngay một cái “tên mới”, đọc lên nghe cũng hay thật (!) ; thế là thôi, từ bấy giờ mà đi xin từ bỏ luôn i-nha-xi-ô mà gắn bó với i-nhã (cho đến trọn đời. Amen) !

Việc phiên âm Ierusalem thành gia liêm có liên quan tới chuyện phát âm các tên riêng viết trong Latin. Cách phát âm tiếng Latin hiện nay trong Hội Thánh là cách phát âm theo giọng Í (được trình bày chi tiết ở phần sau). Hồi đầu Công nguyên, mẫu tự c trong Latin chỉ được phát âm là /k/ dù theo sau c là bất cứ mẫu tự nào. Tương tự thế, mẫu tự s chỉ biểu thị cho âm duy nhất là /s/ (xin mượn kí hiệu phiên âm quốc tế để thể hiện các âm đọc), mẫu tự g có âm /ɡ/, mẫu tự t có âm /t/. Thí dụ conclave đọc là /konklāvĕ/, cardinalis /kardĭnālis/, celebratio /kĕlĕbrātio/, gaudium /ɡaudĭum/, genaratio /ɡĕnĕrātĭo/, gignentia /ɡiɡnentĭa/, prosentio /prōsentĭo/, proscriptio /proskriptĭo/... Về sau, do phát âm theo giọng Í, các mẫu tự c, gt chia ra âm cứng (đọc lần lượt là /k/, /g/, /t/ khi đi trước phụ âm hoặc trước a, o, u) và êm mềm (đọc là /tʃ/, /ʒ/, /s/ khi đi trước e, i). Mẫu tự s cũng chia ra hai âm : đọc /z/ khi đi giữa hai nguyên âm, đọc /s/ trong các trường hợp khác. Ngoài ra gn đọc là /ɲ/ (na ná [nh] của tiếng Việt). Do đó những từ dẫn trên lần lượt được đọc là /konklāvĕ/ (không thay đổi), /kardĭnālis/ (không đổi), /tʃĕlĕbrāsio/, /ɡaudĭum/ (không đổi), /ʒĕnĕrāsĭo/, /ʒiɲensĭa/, /prōzensĭo/, /proskripsĭo/...

Vì thế, các đấng các bậc ở ta, có thể do quen đọc Latin (theo giọng Í), nhưng cũng có thể muốn ra vẻ tây, nên đã đọc, thí dụ Jerusalem thành giê-ru-za-lem, Isaac thành i-za-ac, Isaia thành i-za-i-a... Từ đó mà Jerusalem được phiên thành Gia-liêm. Chỉ có điều muốn cho được nhất quán (như tây), thì cũng phải đọc Giêsu thành Giêzu (tiếng Í : Gesù /dʒe'zu/), Giuse thành Giuze (tiếng Í : Giuseppe /ʒu'zeppe/)... mới đúng ! Các tên Ierusalem, Isaac, Isaia trong tiếng Hipri lần lượt là  ירושלםיצחק , ישעיהו . Trong Hipri, mẫu tự  ש [s(h)in] chỉ có âm /s/ (viết ) hoặc /ʃ/ (viết ),  צ [tsade] có âm /ts/, ז [zayin] có âm /z/ (như trong זכריהו  Zacariaזבולן Zebulonעזריהו  Azaria...), không lẫn với nhau. Nếu Isaia chẳng hạn mà đọc là i-za-i-a thì có lẽ trong Hipri phải thay ש bằng ז ! Cách phiên âm của CGKPV hơi “cực đoan” (chỉ dùng các mẫu tự của Chữ Quốc ngữ), nhưng các vị đó đã phiên âm đúng các danh từ riêng gốc Do-thái, như : I-xa-ác, I-sai-a, Dơ-vu-lun...

Trong văn thơ, để gọi là “thi vị hóa”, mà thỉnh thoảng dùng đến những dạng phiên âm qua chữ Nho đọc theo âm Hán – Việt, thôi thì cũng được. Nhưng áp dụng cách làm đó cho các bản văn PV thì có lẽ không nên, vì còn phải xét đến ý nghĩa của những cái “tên” được nói đến. Có thể kể một ít về ý nghĩa của vài tên riêng (Latin) :

Christus : nghĩa là người được xức dầu, gốc ở chrisma nghĩa là dầu (thánh) ; cả hai từ ngữ này đều có từ tương ứng trong tiếng Hi-lạp là χριστόςχρσμα với nghĩa tương đương ;

Carmelus : tên núi ở Palestina, tiếng Hipri là הַכַּרְמֶ֑ל ( הַ֣ר ) [(har) hakarmel], nghĩa là (núi) vườn nho của Đức Chúa, có gốc từ כֶּרֶם [kerem], có nghĩa là vườn, vườn nho ;

Augustinus : có gốc từ augustus, nghĩa là uy nghi, tôn kính ; chữ augustus được Gaius Octavius Thurinus chọn làm tôn hiệu năm 31 TCN khi ông đánh bại cả Marcus Antonius và Cleopatra để làm hoàng đế đế quốc Roma, (tôn hiệu đầy đủ của ông là Imperator Caesar Divi filius Augustus, Hoàng đế Đại thống lĩnh Tôn kính, Con của Thần) ;

Benedictus : có nghĩa là người được chúc phúc, được chúc tụng, do động từ benedico, benedicere nghĩa là chúc phúc, tán tụng ;

Dominicus : có nghĩa là thuộc về Chúa, gốc từ dominus, nghĩa là người chủ, chúa ;

Franciscus (và cả Francus) : tiếng Latin thời Trung cổ, có nghĩa là thuộc dân tộc Franks ; từ ngữ franks này lại có gốc từ tiếng Germanic, có nghĩa là cái giáo, cái lao ; lại cũng có nghĩa là dân tự do, trung tín ;

Ignatius : có nghĩa là nóng, cháy, nồng nàn, cũng có nghĩa là người mang lửa, do ignis có nghĩa là ngọn lửa ;

Paulus : nguyên có nghĩa là nhỏ, yếu, hèn mọn ;

Vincentius : có nghĩa là người chiến thắng, người chinh phục, từ động từ vinco, vincere...

Nay những cái tên đó, thí dụ Christus thay bằng Ki-tô, thì không biết tự điển, từ điển nào cho biết ki-tô là “Đấng được xức dầu”, Carmelus thay bằng Cát Minh (tốt lành sáng sủa ?), Augustinus bằng Âu Tinh (ngôi sao bên [trời] Âu ?), Benedictus bằng Biển Đức (một biển đầy phúc đức ?), Dominicus bằng Đa Minh (nhiều sự sáng ?), Franciscus bằng Phan Sinh (người trẻ họ Phan ?), Ignatius bằng I Nhã (i phục nhã nhặn ?), Paulus bằng Bảo Lộc (giữ gìn các lợi lộc ?), Vincentius bằng Vinh Sơn (núi rạng ngời ?), v.v..., thì tìm đâu ra ý nghĩa gốc ? Đó là mới kể những cái “tên” tạm coi là có chút ý nghĩa. Còn như Gia Liêm chẳng hạn, thì không biết nó có nghĩa gì ? Chả lẽ lại là “gia tăng thêm sự liêm chính” ? hay là “cái rèm treo trong nhà” ?

Thôi thì những “tên” nào kể là đã quá quen (như Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, Anh, Pháp, Í, La-mã, Hi-lạp, Do-thái...), bỏ đi ngay tức khắc có lẽ cũng gây khó chịu (chứ hoàn toàn chẳng có gì khó khăn), đành sẽ nên thay dần, nhưng xin đừng “sáng chế” ra những tên mới kiểu đó nữa, thật không ổn tí nào.


      c. Cách phiên âm của bản CGKPV
                (đối chiếu với bản NTT và bản NV) :

Vì các dịch giả của bản CGKPV dứt khoát không chấp nhận những âm những vần không có trong tiếng Việt, rồi lại cũng dứt khoát không chấp nhận phiên qua trung gian Latin, nên quả thật có những phiên âm có khi không còn nhận được mặt chữ gốc, có khi sai lạc hẳn. Thí dụ tên các thánh được phiên âm trong SLR 1992. Tạm kể một ít : Cô-lát-ti-ca (lễ ngày 10 tháng 2), Ca-xi-mia (4-3), Pát-rích (17-3), Ta-nít-lao (8-4), Dích-ma-rinh-gân (24-4), Sa-nen (28-4), Păng-ra-xi-ô (12-5), Âu-tinh Can-tơ-bơ-ri (27-5), Ép-rem (9-6), Rô-moan-đô (19-6), (22-6), A-lê-xan-ri (27-6), Bi-ghít-ta (23-7)... Thật may (?!) là nhiều vị có tên ở trên lại không có tên trong lịch PV của một số giáo phận tại Việt Nam. Ấy là chưa kể việc phiên âm cũng thiếu nhất quán : vần -ar lúc thì phiên là -ác như Mác-ti-nô (13-4), Mác-cô (25-4), khi thì phiên là -a như Ba-na-ba (11-6) (6). Qua đó thấy rằng các dịch giả đã loại bỏ hẳn các phụ âm kép như sc- , st- , br- , gr- , cr- , dr- , fr- (phr-), cl- , gl- , pl- ...
Nhưng ở Act 6:5 : Πρόχορος [Prokhoros ; dạng Latin là Proc(h)orus] lại được CGKPV phiên âm là Pơ-rô-khô-rô ;

Act 18:2 : Πρίσκιλλα, Κλαύδιος [Latin : Priscilla, Claudius] phiên là Pơ-rít-ki-la, Cơ-lau-đi-ô ;

Act 18:8 : Κρίσπος [Crispus] là Cơ-rít-pô ;

Rom 16:1 : Κεγχρεαί [Cenchrea] là Ken-khơ-rê ;

1Cor 1:11 : Χλόη [Chloe] là Khơ-lô-e ;

Col 1:7 : Ἐπαφράς [Epaphras] là Ê-páp-ra !

Act 2:10 : Φρυγία [Phrygia] là Phy-gi-a ;

Rom 16:8 : Ἀμπλίας [Amplias ; dạng khác : Ἀμπλίατος, Latin : Ampliatus] phiên thành Am-li-át...

Rom 16:9 : Οὐρβανος [Urbanus] phiên là Ua-ban ; Στάχυς [Stachys] phiên là Ta-khy. Chẳng biết quy tắc nào đã được áp dụng mà khi thế nọ, lúc thế kia.

Một từ ngữ khác, hết sức quen thuộc với mọi tín hữu Thiên Chúa giáo, không riêng gì người Công giáo, là alleluia (hãy-ngợi-khen Chúa, hãy-ngợi-khen Iavê ; Hipri :  הַ֥לְלוּ יָ֨הּ  [hallū yāh]) được bản CGKPV phiên âm thành ha-lê-lui-a, vừa sai cả với cách phát âm của tiếng gốc Hipri (vốn không hề có vần nào là vần -ui), vừa làm mất dạng gốc của một chữ rất quan trọng là Iavê ( יָ֨הּ [yāh]).

Dưới đây là đối chiếu một số tên riêng được phiên âm trong các bản CGKPV, NTT so sánh với các tự dạng trong NV.

Từ tên một số sách trong KT :

Bản Nova Vulgata              Bản CGKPV                        Bản NTT                                 
Nehemias                           Nơ-khe-mi-a                        Nêhêmya                                
Abdias                                Ô-va-đi-a                             Abđya                                    
Michea                               Mi-kha                                 Mica                                                   
Nahum                               Na-khum                              Nahum                                               
Habacuc                             Kha-ba-cúc                          Habacuc                                               
Aggaeus                             Khác-gai                              Haggai                                    

Cho đến các tên khác :

Henoch                               Kha-nốc                              Hênoc                                     
Mathusalam                       Mơ-thu-se-lác                     Mathusalem               
Sala                                    Se-lác                                  Selakh                                    
Heber                                 Ê-ve                                     Eber                                                   
Phaleg                                Pe-léc                                  Pêleg                                                  
Artaxerxis                           Ác-tắc-sát-ta                      Artaxerxes
Agrippa                              Ác-ríp-pa                            Agrippa
Adrammelech                     Át-ram-me-léc                   Ađrammôlek
Beselam                              Bít-lam                               Bishlam
Mithridates                         Mít-rơ-đát                           Mitriđat
Tabel                                   Táp-ên                                Tabơel
Ephraim                               Ép-ra-im                            Ephraim
Ephratha                              Ép-ra-tha                            Êphrata

Đối với các tên Kha-nốc, Mơ-thu-se-lác, Se-lác, Ê-ve... thì chỉ có vấn đề là các âm đọc do việc phiên âm trực tiếp từ Hipri hoặc phiên âm qua trung gian Latin có hơi khác nhau, nhưng với các tên còn lại như Ác-ríp-pa, Át-ram-me-léc... thì khi ngắt ra như thế, khó mà nhận biết nguyên dạng và nghĩa gốc (thí dụ αγριππας [agrippa] do tiền tố ἀγρ- [đồng hoang, đồng nội, dã ] và ἵππος [ngựa], có nghĩa là người thuần hóa ngựa hoang... ; ngắt ra thì cả ác- cũng như ríp-pa không biết nghĩa là gì ! ; hoặc אפרים [efrayim] : quả kép, gốc từ אפרת [ephrath] nghĩa là miền đất phì nhiêu... ; hoặc אפרתה ['efratah] – tên khác của Bê-lem – cùng gốc với אפר [afayr'] = cột, buộc, bó). 



      d. Quy ước phiên âm dùng trong sách này :

Quy ước 1 :

*. Trong sách này sẽ dùng dạng Latin hoặc dạng phiên âm chủ yếu từ Latin.

*. Những từ (không phải tên riêng) xét thấy có từ ngữ có thể coi là tương đương trong tiếng Việt để dịch thì sẽ dịch chứ không phiên âm, cho dù dạng phiên âm đó hết sức quen thuộc. Có lẽ cho đến nay chỉ còn từ duy nhất là baptista trong Latin, mà trong tiếng Tbn là bautista, và được phiên âm rất quen thuộc là bao-ti-xi-ta. Từ này sẽ được thay bằng tẩy giả (= người rửa).

*. Đối với dạng phiên âm từ Latin, không thêm dấu sắc (dấu DauSac.bmp) của tiếng Việt vào dạng phiên âm, cũng không dùng dấu gạch nối ngắn (dấu - ; trừ một số rất ít trường hợp sẽ kể dưới đây) ; chỉ viết hoa âm tiết (vần) đầu tiên của từ được phiên âm nếu từ đó cần được viết hoa.

*. Không phiên âm giới từ de trong Latin (trước kia quen phiên là “đệ”, như Gioanna Phanxica đệ Chantal, sách BĐ mùa Vọng và mùa Giáng sinh, UBGMPV, trang 315, Phanxicô đệ Phaolô, Gioan Tẩy giả đệ Salê, Fiđêlê đệ Sigmaringa, sách BĐ mùa Chay và mùa Phục sinh, các trang 377, 378, 379, Vincentê đệ Phaolô, sách BĐ mùa Quanh năm II, trang 496).

Các thí dụ :

- dùng Gioan (không dùng các dạng Gio-an / Gio an / Gio An / Gio-An ; trừ khi dẫn lại từ sách khác), thay cho Ioannes ;

- dùng Giuse (không dùng các dạng Giu-se / Giu se / Giu Se / Giu-Se ; trừ khi dẫn lại từ sách khác) thay cho Ioseph ;

- nhưng khi phiên âm Louis (tiếng Pháp) sẽ dùng Lu-i (không dùng dạng Lui, vì sẽ lẫn với “lui” trong “lui tới” ; cũng không dùng dạng Luy, vì sẽ lẫn với “luy” trong “Luy Lâu”... ; cũng không dùng dạng Lu-y vì chẳng có lí do gì để phải dùng như thế ; Louis trong LatinLudovicus, nhưng dạng này dài quá nên không phiên âm).

Quy ước 2 :

*. Chỉ với những danh từ đã quá quen thuộc (như : châu Á, Âu, Mĩ...) mới dùng dạng phiên âm qua trung gian Hán – Việt.

*. Khi đó nếu từ được phiên âm có từ hai âm tiết (vần) trở lên thì luôn luôn có dấu gạch nối giữa các tiếng được phiên âm.

*. Chỉ viết hoa chữ đầu tiên của âm tiết đầu tiên nếu từ cần phiên âm đáng phải viết hoa.

Các thí dụ :

- dùng Do-thái (không dùng các dạng Dothái / Do thái / Do Thái / Do-Thái ; trừ khi dẫn lại từ sách khác) thay cho Hipri (chỉ trong một số rất ít trường hợp mà thôi) ; hoặc dùng La-mã (không dùng các dạng Lamã / La mã / La Mã / La-Mã ; trừ khi dẫn lại từ sách khác) thay cho Rôma (cũng chỉ trong một số rất ít trường hợp mà thôi).

- dùng Tiểu Á vì đây là kiểu vừa phiên vừa dịch từ Asia Minor ; cả AsiaMinor đều viết hoa, nên cả TiểuÁ cũng phải viết hoa và không có gạch nối (tương tự thế – ở đây dẫn ra chỉ để làm thí dụ – dù là dạng hoàn toàn phiên âm, Nữu Ước vẫn viết hoa cả hai và không có dấu gạch nối, vì Nữu là tiếng phiên âm cho NewƯớc là tiếng phiên âm cho York ; nhưng Tân Tây-lan thì chỉ viết hoa TânTây, còn Bồ đào-nha chỉ viết hoa Bồ, đồng thời phải có gạch nối giữa hai tiếng Tâylan, giữa ba tiếng Bồ, đào, nha : năm tiếng tây, lan, bồ, đào, nha này hoàn toàn không thể xem là những “từ”, vì vai trò của chúng chẳng qua chỉ để hình dung các âm tiết trong ngôn ngữ gốc, hoàn toàn khác với vai trò của Tân là một “từ”, vì nó đã được dùng để dịch từ New của ngôn ngữ gốc).

Quy ước 3 : Riêng danh xưng Christus (Χριστός) sẽ được phiên âm là Kristô thay cho Ki-tô (hoặc Kitô, Ky-tô, Kytô, trừ khi dẫn lại từ sách khác), dù Ki-tô (hoặc Kitô) là tiếng đã dùng quen mấy chục năm nay, nhưng xét cho cùng đó là những tiếng vô nghĩa, không nên để tồn tại.

_______________
(5) Thí dụ tiếng Tàu không có âm r như được phát âm trong các tiếng Tây phương, mặc dù cách phiên âm giọng Bắc Kinh theo chữ cái Latin cũng có chữ cái này. Âm của chữ r đó na ná như âm của chữ s trong measure của tiếng Anh. Ngoài ra với cách phiên âm đó, thì những chữ Nho có âm đầu ghi bằng chữ cái Latin theo giọng Bắc Kinh là r- lại thường có âm đầu nh- (có khi là d-) trong cách đọc Hán – Việt : ràng → nhượng, rén → nhân, rèn → nhẫn, rì → nhật, róng → nhung, rú → như, rù → nhập...

(6) Về chuyện phiên âm các từ ngữ nước ngoài sang tiếng Việt, thì ngay từ năm 1897, ở địa phận Đông Đàng Ngoài (Tonkino Orientale, sau này là Hải Phòng và Bắc Ninh) có bộ sách in chữ Nôm nhan đề Sách Truyện Các Thánh Toát Yếu, do giám mục Giu-se Hiến (tên Việt Nam của đức cha José Terrés, OP., 1843 – 1906) truyền từ. Bộ sách gồm 2 quyển, kể các truyện tích về các ngày lễ kính Chúa, Đức Mẹ và các Thánh trong một năm Phụng vụ (cũ). Trong bộ sách này, tuy viết bằng chữ Nôm, nhưng các từ ngữ nguyên là tiếng nước ngoài (phần lớn là các tên riêng và các danh từ về Hội Thánh mà lúc đó chưa được dịch sang tiếng Việt) được phiên âm rất cẩn thận. Đặc biệt các từ ngữ có âm cuối vần (âm tiết) là -r, thi chữ r này được viết (dĩ nhiên là chữ Latin) chen vào giữa các Chữ Nôm (có lẽ chưa có sách nào viết như thế, và cách viết của bộ sách này có thể nói là duy nhất). Có thể kể một số thí dụ (chữ Tbn = Tây-ban-nha, Bđn = Bồ-đào-nha) :
Chữ gốc                                            Chữ Nôm phiên âm                        Đọc theo chữ Quốc ngữ
Salerno (tiếng Tbn)                          r                                      sa-le-r-no
Policarpo (Tbn)                                r                                 po-li-ca-r-po                                    
Persia (Tbn)                                      r                                     pe-r-si-a
persona (Tbn)                                r                                       pe-r-so-na                                                       
Marcello (tiếng Í)                             r 𩂏 𠰷                                      ma-r-che-lo
Giordano (Í)                                      r                                      gio-r-đa-no
Ferdinando (Í)                                   r                            fe-r-đi-nan-đo
confirmação        (Bđn)                  r                              con-fi-r-ma-song ...
Nhờ thế có thể dễ dàng phân biệt giữa danh từ riêng r 𠰷 (ca-r-me-lo = Carmelo, Tbn / Bđn / Í) với danh từ chung 𠰷 (ca-me-lo = camelo, Tbn ; camelo, Bđn ; cammello, Í = con lạc đà).



(Còn tiếp)


Bài trước : Bài 2a
Bài tiếp theo : Bài 3



Không có nhận xét nào: