Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2019

THÁNH CA LATIN TRONG PHỤNG VỤ





THÁNH CA LATIN TRONG PHỤNG VỤ

Bùi Ngọc Hiển

I. VỀ QUYỂN MISSALE ROMANUM :

   'Missale Romanum' nguyên có nghĩa là : Việc cử hành Thánh Lễ theo nghi thức Rôma, được dùng làm tên gọi bộ sách mà bản Việt ngữ dịch là 'Sách Lễ Rôma'. Sở dĩ gọi là 'theo nghi thức Rôma' vì còn có các nghi thức khác, chẳng hạn nghi thức Carthusian, Dominican... Quyển Sách Lễ chính thức mang tên 'Missale Romanum' đầu tiên được ấn hành năm 1474 dưới triều ĐGH Sixtô IV. Ban đầu Sách Lễ gồm những thủ bản từng phần riêng biệt trong Thánh Lễ, như 'Sacramentarium' (nghi thức hiến tế, phần trung tâm của Thánh Lễ, dành cho chủ tế), 'Antiphonarium Missae' hoặc 'Graduale' (tiền xướng trong Thánh Lễ, ca tiến cấp, gồm các bài hát trong Thánh Lễ, dành cho ca đoàn), 'Epistolarium' hoặc 'Apostolus''Evangeliarium' (các thánh thư và Tin Mừng, và các bài đọc khác) ; ngoài ra lại còn 'Ordo' hoặc 'Directorium' quy định thứ tự các phần vụ trong việc cử hành Thánh Lễ.

   Mãi đến thế kỷ thứ X, mới thấy xuất hiện một dạng thủ bản có tên là 'Missale plenum' (nghi thức đầy đủ về Thánh Lễ), gấn giống như Sách Lễ hiện nay, tập hợp cả các bài chủ tế phải đọc như Thánh Thư, Phúc Âm, các Kinh nguyện trong Thánh Lễ, các tiền xướng cho ca đoàn. Khoảng thế kỷ XIII ở Ý đã phổ biến quyển Sách Lễ tập hợp các lễ theo niên lịch hay các bậc lễ dưới tên gọi 'Missale secundum consuetudinem Romanae curiae'. Bản 'Missale Romanum' đầu tiên như đã nói được in tại Milano năm 1474 (sau này được nhà Henry Bradshaw Society in lại thành hai tập vào các năm 1899 và 1907). Công đồng Trento (được ĐGH Paulus III triệu tập năm 1545, ĐGH Julius III tái nhóm, ĐGH Pius IV tái nhóm một lần nữa và kết thúc năm 1563) đã trao cho các ĐGH quyền phê chuẩn Sách Giáo Lý, Sách Nhật Tụng, và Sách Lễ. Sau đó, năm 1570 bản Sách Lễ có phê chuẩn chính thức của Giáo Hội đã được ban hành năm 1570, in kèm tự sắc của ĐGH Pius V ngày 19-6-1570 yêu cầu hàng giáo sĩ theo nghi thức Latin sử dụng. Ấn bản này được dùng rộng rãi trong phần lớn châu Âu. Năm 1604, một ấn bản 'Missale Romanum' được điều chỉnh và ban hành cùng với một đoản sắc của ĐGH Clemens VIII năm 1604, rồi ấn bản năm 1634 dưới triều ĐGH Urbanus VIII. Đến nay mỗi lần tái bản, điều chỉnh, các tự sắc kể trên của các ĐGH liên quan đến Sách Lễ đều được in lại ngay đầu sách.

   Từ thế kỷ thứ XX vừa qua tới nay cũng có một số điều chỉnh : 

1. Ấn bản sớm nhất là 'Missale Romanum ex Decreto Sacrosancti Concili Tridentini, Editio Typica Iterum Impressa' in năm 1921 trên loại giấy thường, khổ 17cm x 25cm x 4cm, gồm 878 trang, chia ra :

   - Phần hướng dẫn chung : các tự sắc của các ĐGH, các hướng dẫn tính toán các ngày lễ (chu kỳ 19 năm), hướng dẫn niên lịch Phụng Vụ, Quy tắc cử hành Thánh Lễ ;

   - Phần chính :
      - Chu kỳ năm Phụng Vụ và thứ tự cử hành Thánh Lễ (Proprium de Tempo, Canon Missae) ;
      - Lễ riêng các Thánh trong năm (Proprium de Sanctis) ;
      - Lễ chung các Thánh (Commune Sanctorum) ;

   - Phụ lục (Appendix).

   Các ấn bản sau năm 1921 còn đính thêm các bản lễ cho các ngày lễ mới được ấn định (như lễ Thánh Gioan Maria Vianney ngày 9-8, Thánh Gioan Eudes ngày 19-8, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Thứ Sáu thứ hai sau tuần Bát Nhật Hiện Xuống, lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Nhật cuối Tháng Mười...).

2. Ấn bản 'Missale Romanum ex Decreto Sacrosancti Concili Tridentini, Editio Prima Iuxta Typicam' in năm 1962 trên giấy bible, khổ 17cm x 23cm x 3cm. Về đại thể cũng tương tự ấn bản 1921, gồm 1048 trang, chia ra :

   - Phần hướng dẫn chung ;
   - Phần chính : Proprium de Tempo ; Proprium de Sanctis ; Commune Sanctorum : đánh số trang từ 1* đến 270* (140 trang cuối được dành cho các lễ kính các Thánh mừng địa phương, Propriun Sanctorum pro Aliquibus Locis). Các lễ mới ấn định sau 1921 đều được đưa vào phần chính này (lễ Thánh Gioan Vianney đổi sang ngày 8-8, mừng chung trong toàn Giáo Hội ở trang 600, mừng địa phương ở phần P. A. L. trang 179*, Thánh Gioan Eudes vẫn ngày 19-8 trang 611, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu trang 261, lễ Chúa Kitô Vua trang 673...). 
   - Phần chỉ mục (Index).

   Mỗi Thánh Lễ trong cả hai quyển trên đây đều có các Bài đọc, Tiền xướng, Lời nguyện, và vì các Bài Đọc thường trùng lặp (thí dụ lễ Thánh Gioan Maria Vianney trang 600 chỉ có Oratio, Secreta và Postcommunio, còn lại lấy ở lễ chung các Thánh Hiển Tu không phải Giáo Hoàng, Communi Confessoris non Pontificis trang 24*, ấn bản 1962), nên mỗi quyển cũng không dày (và không nặng) lắm (chỉ tương đương bản 'Sách Lễ Rô-ma' Việt ngữ, ấn bản của CGKPV 1980).

3. 'Missale Romanum ex Decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II' : Đến năm 1962 ĐGH Joannes XXIII triệu tập công đồng Vaticano II, đem lại nhiều canh tân cho toàn thể Giáo Hội, trong đó có các canh tân về Phụng Vụ, như Hiến chế Sacrosanctum Concilium được ĐGH Paulus VI công bố ngày 4-12-1963. Do đó đến năm 1965, Giáo Hội ban hành một ấn bản Missale Romanum canh tân. Ngày 3-4-1969, ĐGH Paulus VI công bố một ấn bản Missale Romanum canh tân thứ hai đặt căn bản trên Novus Ordo Missae (Thứ Tự Thánh Lễ Mới). Bản này đã được Senatus Saigon tiến hành dịch sang Việt ngữ và được sử dụng cho tới khoảng năm 1980. Ngày 27-3-1975 Thánh Bộ Phụng tự ban hành Quy chế Tổng quát về Sách Lễ Rôma (Institutio Generalis Missalis Romani). Bản Quy chế này chính là tiền thân của bản Quy chế được ĐGH Ioannes Paulus II ban hành ngày 11-1-2000 để chuẩn bị cho ấn bản Sách Lễ Rôma canh tân lần thứ ba, có hiệu lực từ ngày 22-3-2002 (bản Latin 'Missale Romanum ex Decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II'). Bản này đã được dịch ra Việt ngữ và ban hành để sử dụng trong nước Việt Nam từ cuối năm ngoái 2006.

   Vài thay đổi giữa các ấn bản 1921, 1962, 2002 có thể kể như sau :

   - Ngày lễ được ấn định để mừng kính Chúa và các Thánh ; thí dụ :

   Bản năm 1921 cho ta biết Lễ Thánh Gia Thất thuộc các Lễ Riêng (Missae Propriae – không buộc mừng trong toàn thể Giáo Hội Hoàn Vũ), mừng ngày 19-1 hằng năm. Nhưng với bản 1962, thì Lễ này đã trở thành Lễ chung trong toàn Hội Thánh, và ngày mừng được dời lên Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Hiển Linh (dominica I post Epiphaniam), và hiện nay được mừng vào Chúa nhật trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh (dominica infra Octavam Nativitatis Domini).

   - Nghi thức và các bài đọc trong các Thánh Lễ ; thí dụ :


      + Thay đổi các nghi thức trong Thánh Lễ (Ordo Missae)



      + Thay đổi quan trọng nhất chính là chu kỳ Phụng Vụ. Trước Công đồng Vaticano II, các Bài đọc trong các Thánh Lễ cho cả một năm chỉ trích từ một phần rất nhỏ trong Kinh Thánh. Sau Công đồng số các đoạn trích ra từ Kinh Thánh làm các Bài đọc trong các Thánh Lễ được tăng lên đáng kể, có thể nói mọi quyển trong Kinh Thánh đều được trích đọc ít nhiều. Ngay phần Đáp ca trong Thánh Lễ trước kia (gọi là Ca Tiến cấp) cũng chỉ lấy từ một số Thánh Vịnh. Tất cả 150 Thánh Vịnh chỉ được đọc trong Giờ Kinh Sách. Nay thì có thể nói gần hết các Thánh Vịnh đã được đưa vào phần Đáp ca. Muốn được như vậy, chu kỳ các Thánh Lễ Chúa Nhật và Lễ trọng kéo dài đến 3 năm (năm A, B, C), nghĩa là phải sau 3 năm các Bài đọc trong cùng một Chúa Nhật hay một Lễ Trọng mới được nghe đọc lại. Còn các Thánh Lễ các ngày thường có chu kỳ là 2 năm (năm chẵn và năm lẻ), vì số các ngày thường so với các Chúa Nhật là gấp 6 lần.

   Vì vậy trong Sách Lễ mới không thể in đủ các Bài đọc được, bởi nếu như thế quyển sách sẽ quá dày (cỡ 5000 trang trở lên) và sẽ quá nặng (nhưng chắc cũng không tới 15 kg). Do đó, các Bài đọc và Đáp ca được in riêng (mà cũng phải in thành nhiều quyển, như Mùa Vọng và Giáng Sinh, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, Mùa Thường Niên trước Phục Sinh, Mùa Thường Niên sau Phục Sinh...). Mỗi Thánh Lễ trong 'Sách Lễ Rôma' chỉ còn in Ca Nhập Lễ, Lời Nguyện Nhập Lễ, Ca Dâng Lễ, Lời Nguyện trên Lễ Vật, Kinh Tiền Tụng, Ca Hiệp Lễ, Lời Nguyện sau Hiệp Lễ, và một số các Nghi thức khác (thánh Lễ có cử hành Bí Tích Hôn Phối, Thêm Sức, Thánh Lễ Cầu Hồn, các Nghi thức ban Phép Lành...).
   - Thay đổi thứ hai không kém phần quan trọng, đó là Sách Lễ theo Công đồng Trento chỉ có một Kinh Nguyện Thánh Thể, nhưng Sách Lễ theo Công Đồng Vaticano có đến 4 mẫu Kinh Nguyện Thánh Thể, trong đó mẫu I chính là mẫu Kinh Nguyện Thánh Thể vẫn dùng từ trước (gọi là Kinh Nguyện Thánh Thể Rôma) ; ngoài ra còn có các mẫu 'Thánh Lễ cho Giới Trẻ', 'Thánh Lễ cho Thiếu Nhi'...

   Như thế, việc chọn bài để hát tiếng Latin trong Thánh Lễ (Ca Nhập Lễ, Đáp Ca, Kinh Kyrie, Kinh Gloria...) phải căn cứ vào 'Missale Romanum' là đúng. Nhưng nếu lại dùng quyển 'Missale Romanum' với ấn bản cách đây cả trăm năm thì e rằng đã đi ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội về Phụng Vụ.

   Còn nếu chỉ cần hát các bài chung trong mọi Thánh Lễ gồm Kyrie, Gloria, Sanctus, Agnus Dei (vẫn thường được gọi là 'Bộ Lễ'), thêm kinh Pater noster, và những bài hát dùng trong các giờ Chầu Phép Lành... thì có thể không cần tới sách 'Missale Romanum', mà có sách khác thuận tiện hơn như được trình bày dưới đây.

II. SÁCH HÁT LỄ LATIN :

   1. 'Liber Usualis Missae et Officii (pro Dominicis et Festis cum Cantu Gregoriano ax Editione Vaticana Adamussim Excerpto et Rhythmicis Signis in Subsidum Cantorum)', xuất bản năm 1960, khổ 12cm x 19cm x 6cm, gồm 2150 trang in trên giấy bible. Đây là bộ sách hát lễ Latin có thể nói là đầy đủ nhất, chia ra :

   Proœmium (Dẫn nhập) gồm :

   - Hướng dẫn kí âm pháp Bình ca có đối chiếu với kí âm pháp phổ thông, hướng dẫn các tiết tấu trong dòng nhạc Bình ca ;
   - Bảng các ngày lễ trong năm Phụng vụ và niên lịch Phụng vụ (như trong Sách Lễ Rôma) ;
   - Quy luật về Phụng ca ;
   - Mục lục các Phụng ca trong Thánh lễ theo niên lịch Phụng Vụ ;

   Phần chính chia ra :

   - Ordo Missae ;
   - Cantus Ordinarii Missae (Phụng ca Thánh Lễ) ; kể từ đây cho đến hết sách (trừ Index), các bài hát đều có phần ký âm theo lối Bình ca ;
   - Cantus Ordinarii Officii (Phụng ca Nhật tụng) ;
   - Proprium de Tempo (Phụng ca theo niên lịch Phụng Vụ) ;
   - Commune Sanctorum (Lễ chung các Thánh) ;
   - Proprium Sanctorum (Lễ riêng các Thánh) ;
   - Exsequiarum Ordo (Nghi thức Lễ Cầu hồn) ;

   Phần phụ cuối sách gồm :

   - Appendix I (Phụ lục I) : gồm các bài hát tạ ơn (Te Deum), cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần (Veni Sancte Spiritus), các Nghi thức cử hành các Bí tích Truyền Chức Thánh, Thêm Sức...
   - Cantus Varii (Các Phụng ca khác) : gồm các bài hát trong giờ Chầu Phép lành Thánh Thể (như Tantum Ergo, O Salutaris Hostia, Adoro te...), các bài hát về Đức Mẹ (như Litaniae Lauretanae, Kinh Cầu Đức Bà, Ave Maria gratia plena, Kinh Kính Mừng...), các bài hát cầu nguyện theo các nhu cầu khác...
   - Appendix II (Phụ lục II, đánh số trang từ 1* đến 68*) : dù là phần phụ lục, nhưng lại đặc biệt quan trọng, vì ngoài bài đầu tiên là Bài hát Kinh cầu Các Thánh (Litaniae Sanctorum), phần còn lại là hướng dẫn hát các Thánh Vịnh (Psalmi) theo các cung riêng cho từng thể Thánh Vịnh ;
   - Index (chỉ mục), gồm 30 trang cuối cùng ;
   - Ngoài ra, cũng tương tự quyển 'Missale Romanum 1921' đã nói trên, sách này còn được đóng kèm thêm 98 trang cho các bài hát không được ấn hành đồng thời với toàn sách.

   Quyển 'Paroissien Romain, Contenant la Messe et l'Office pour les Dimanches et les Fêtes, Chant Grégorien extrait de l'edition Vaticane et signes rythmiques des Bénédictins de Solesmes', xuất bản tại Paris-Tournai-Rome, Desclée năm 1954 cũng trích lại từ quyển 'Liber Usualis Missae et Officii' này.

   2. 'Cantus Missae et Officii', thông dụng không kém, nhưng khổ nhỏ hơn, 10,5cm x 16,5cm x 2,5cm, và cũng mỏng hơn, gồm 464 trang, chia ra như sau :

   Phần phụ đầu sách, 28 trang đánh số La-mã, gồm :

   - Index (Chỉ mục) các bài hát trong toàn sách ;
   - Princepes d'Exécution du Chant Grégorien, rythmé d'après la Méthode des Bénédictins de Solesmes (20 trang) : trong có hướng dẫn ký âm pháp cơ bản của nhạc Grégorien, lại có hướng dẫn cách đọc tiếng Latin (cho người nói tiếng Pháp), và hướng dẫn cơ bản về 8 cung Thánh Vịnh ;

   Phần chính chia ra :

   - Ordo Missae : Nghi thức Thánh Lễ đối chiếu hai văn bản Latin và Pháp ;

   - Toni Gloria Patri in Introitu Missae : 8 cung Kinh Sáng Danh hát đầu lễ ; Toni Communes Missae : Các cung chào thưa trước Phúc Âm, trước Kinh Tiền Tụng, trước Kinh Lạy Cha, và trước Kinh Chiên Thiên Chúa ;

   - Cantus Ordinarii Missae (Phụng ca Thánh Lễ thông thường), có các cung cho các Kinh trong Thánh Lễ như :

      - Rảy Nước Thánh trong Thánh Lễ Chúa Nhật (In Dominicis ad Aspersionem Aquae Benedictae) ;
      - Bộ lễ (Kyrie eleison, Gloria in excelsis Deo, Sanctus, Agnus Dei, Ite Missa est, Benedicamus) gồm 18 bộ mà các bài kinh trong mỗi bộ phải dùng với nhau trong một Thánh Lễ, không hát Kinh này theo bộ này, Kinh khác theo bộ khác) ;
      - Kinh Credo : 3 cung (I, III, IV) ;
      - Các cung tự do (ad libitum) cho các Kinh Kyrie, Gloria, Sanctus, Agnus ;
      - Ba bộ lễ của H. du Mont theo cung I, II và VI ;
      - Bộ lễ An táng - Cầu hồn ;

   - Cantus Ordinarii Officii Vespertini (Phụng ca giờ Kinh Chiều) :

      - Octo Toni Psalmorum (8 cung Thánh Vịnh) hướng dẫn cách hát Thánh Vịnh Latin theo 8 cung chính ;
      - Psalmi ad Vesperas (Thánh Vịnh trong giờ Kinh Chiều) ;
      - Commune Apostolorum, Martyrum et Confessorum (Lễ chung các Thánh Tông đồ, các Thánh Tử đạo, các Thánh Hiển tu), in Festia B. Mariae Virginis (trong lễ Đức Mẹ) ;
      - Psalmi Vespertini pro Diversitate Festorum (Thánh Vịnh giờ Kinh Chiều trong một số lễ) ;
      - Dominica ad Completorum (Nhật tụng Chúa Nhật) ;
      - Vesperae Defunctorum (Kinh chiều lễ An táng) ;
      - Officium Defunctorum (Kinh Nhật tụng lễ An táng) ;

   - Hymni frequentius usitati, Missae et Vesperae in Praecipuis Festis (Các Ca Vịnh thông dụng trong Thánh Lễ và giờ Nhật tụng các Lễ chính) như Chúa Nhật quanh năm, Mùa Vọng, lễ Đức Mẹ vô nhiễm, lễ Giáng Sinh... theo niên lịch Phụng Vụ ;

   Phần bổ sung (đánh số trang từ [1] đến [132] ), có tên 'Cantus ad Processiones et Benedictiones Sanctissimi Sacramenti' (Các Bài hát trong các giờ Chầu), như Ave Verum, Caro mea, Ecce Panis, Panis Angelicus, Adeste fideles, Puer Natus, Stabat Mater, Veni Creator, Tantum Ergo, Te Deum...

   Hồi trước Nhà sách Đức Mẹ (38 Kỳ Đồng) cũng có bán một số sách hát Latin được in tại Việt Nam theo lối chụp ảnh (có thể so sánh với photocopy hiện nay) đủ cỡ. Những quyển này nếu nơi nào còn giữ đều có thể sử dụng mà không sợ chuyện 'tam sao thất bản', vì các dấu nhạc thuộc dòng Bình ca không phải lối ghi âm thông dụng, mà dẫu có muốn chép lại có lẽ cũng khó đẹp bằng nguyên bản nếu so với lối ghi âm năm dòng kẻ phổ thông. Do đó, nơi nào còn lưu mà muốn tập hát bằng tiếng Latin vẫn có thể yên tâm, không sợ sai lệch so với bản chính.


III. CÁCH ĐỌC TIẾNG LATIN :

A. MẪU TỰ, VẦN, TRỌNG ÂM : 

   1. Mẫu tự, nguyên âm, phụ âm :

   Trước hết cần ghi nhớ trong tiếng Latin các chữ sau đây (và các kết hợp giữa chúng với nhau) là các chữ nguyên âm : a, e, i, j, y, o, u ; các chữ còn lại đều là phụ âm : b, c, d, f, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, w, x, z (chữ w, z, y nguyên là chữ mượn từ chữ Hi-lạp, thực tế cũng rất ít gặp trong văn Latin).

   2. Vần :

   Một từ Latin có thể chia ra nhiều vần. Để hát đúng tiếng Latin mà không hiểu về vần của các từ thì sẽ bị sai, vì mỗi vần phải được hát với ít là một nốt nhạc. Chia vần không đúng sẽ dẫn tới việc hát sai dòng nhạc.

   Một vần bao giờ cũng phải có một nguyên âm (đơn hoặc đôi) ; mỗi từ được chia vần theo quy tắc :

   a. Hai nguyên âm liền nhau : được chia thành 2 vần :

      nguyên âm đơn + nguyên âm đơn :
mea = me + a ;
Deum = de + um (2 vần) ;
      nguyên âm đôi + nguyên âm đơn :
quia = qui + a ;
praeivi = prae + i + vi (hoặc viết præivi) ;
      nguyên âm đơn + nguyên âm đôi :
gloriae = glo + ri + ae (hoặc glor) ;
suae = su + ae (hoặc s) ;
      nguyên âm đôi + nguyên âm đôi :
jejunos = je + ju + nos (hoặc ieiunos) ;
Galilaeae = ga + li + lae + ae (hoặc Galilææ) ;

   b. Một phụ âm ở giữa 2 nguyên âm chia 2 nguyên âm đó thành 2 vần, phụ âm đó đi với nguyên âm sau :
supero = su + pe + ro (3 vần) ;
civitate = ci + vi + ta + te (4 vần) ;

   c. Nếu giữa 2 nguyên âm có từ 2 phụ âm trở lên, thì phụ âm chót đi với nguyên âm sau :
mitto = mit-to (2 vần) ;
consumptus = con + sump + tus (3 vần).

   Nhưng nếu nhóm phụ âm đó là tổ hợp ghép bởi 1 trong các âm p, b, t, d, c, g với 1 trong các âm l, r, thì cả tổ hợp này đi với nguyên âm sau :
patrem = pa + trem ;
castra = cas + tra ;

   Các phụ âm trong số các tổ hợp ch, ph, th, qu luôn đi cùng với nhau :
architectus = ar + chi + tec + tus ;
loquacem = lo + qua + cem.

   3. Trọng âm :

   Trọng âm cũng là một yêu cầu quan trọng, vì trong việc ký âm cho các Thánh Vịnh (Psalmi) hay các Kinh Cầu (Litaniae) chẳng hạn, người ta không bao giờ ghi nốt nhạc cho toàn bài (gồm những câu dài ngắn không đều), mà chỉ ghi cho một câu mẫu, với tiết tấu từng phần (intonatio, tenor et flexa, mediatio, finalis) trong đó bao giờ cũng chỉ rõ nốt trọng âm (accentu). Nếu đặt sai vần (có trọng âm lại hát vào nốt không trọng âm hay ngược lại) thì hỏng bét.

   Trọng âm trong tiếng Latin tuân theo mấy quy tắc sau :

   - Từ có 2 vần : trọng âm luôn ở vần đầu :
fé-cit, mí-hi, má-gna, pó-tens, sán-ctum, nó-men, é-jus...

   - Từ có 3 vần trở lên :
      nếu vần thứ 2 kể từ cuối có nguyên âm dài thì trọng âm ở vần thứ 2 này :
ser-vá-re, con-sér-vat, for-tú-na...
      nếu vần thứ 2 kể từ cuối có nguyên âm ngắn thì trọng âm ở vần trước nó :
mó-ne-o, pá-tri-a, pe-cú-ni-a, vó-lu-cris...

   Việc phân biệt âm dài âm ngắn là điều khó, nhưng các Sách Hát Lễ Latin đều luôn ghi dấu trọng âm cho những từ có hơn 2 vần ; vì thế, nếu theo đúng các chỉ dẫn trong các sách đó, thì việc đọc đúng tiếng Latin sẽ không khó nữa.

B. CÁCH ĐỌC TIẾNG LATIN :

   1. Một số lưu ý :

   Có thể nói tiếng Latin rất dễ đọc, theo nguyên tắc viết làm sao đọc làm vậy, viết bao nhiêu chữ đọc hết bấy nhiêu, chỉ trừ một vài trường hợp cần đặc biệt lưu ý, vì không giống như trong tiếng Việt :

   - Âm l cuối từ trong tiếng Latin cần phải uốn cong lưỡi lên, dứt khoát không phải âm n trong Việt ngữ. Thí dụ : Gamaliel chớ đọc thành ga-ma-ni-ên (kiểu như thấy đọc trên TV cool air thành cu-ne, kremil S thành cờ-rê-mi-nét...) ;

   - Âm p đầu từ trong tiếng Latin là một âm môi bật hơi, nhưng nhẹ nhàng hơn âm b, mà cũng hoàn toàn không phải âm ph Việt ngữ. Thí dụ : culpa chớ đọc thành cun-ba hoặc cun-pha ; Petrus chớ đọc thành bê-chút hoặc bê-tờ-rút hoặc phê-trút... ;

   - Âm r trong tiếng Latin phải đọc hơi rung lên, chớ đọc chẳng hạn như Maria thành ma-zi-a ; Israel thành ít-za-en hoặc ít-xa-en ; saecula saeculorum thành xê-cu-na xê-cu-nô-zum ;

   - Trong bảng dưới đây, khi ghi cách đọc là tr tức là đọc tương tự tr Việt ngữ như trong 'trầm trồ, trăn trở, trong trẻo, tràn trề' (nhiều người gọi là 'trờ nặng'), tương tự cách đọc ch trong 'church' của tiếng Anh. Khi ghi là t’r thì phải đọc luyến từ t(ờ) sang r (hơi rung lên) ; âm này trong các ngôn ngữ Tây phương là rất thường gặp, như trong 'tree' của tiếng Anh, 'traité' của tiếng Pháp chẳng hạn ; dẫu vậy chớ đọc tách riêng hai âm tờ-rờ là không đúng. Thí dụ : Patrem đọc pa kế đến t(ờ) luyến ngay sang rêm (âm rung), ghi là pa-t’rêm (2 vần) ; chớ đọc là pa-tờ-rêm hoặc pa-tờ-zêm (3 vần) hoặc pa-trêm hoặc ba-chêm hoặc pha-trêm (dù là 2 vần) vì đều sai hết thảy.

   2. Nối âm :

   Quy tắc : nếu từ trước tận cùng bằng 1 hay nhiều phụ âm và từ theo sau bắt đầu bằng 1 nguyên âm (đơn hoặc đôi) thì phụ âm chót của từ trước phải được nối sang nguyên âm của từ sau :

Nhóm từ                     Đọc thành            

ponam_inimicos        pô-nam-mi-ni-mi-côx’          
Dominus_a                đô-mi-nux-xa
sicut_erat_in              xi-cut-tê-rat-tin         
in_æternum               in-nê-ter’-num
discessit_ab_illa        đi-trêx-xit-tap-bi-la   
dixerunt_ad_illam      đik’-xê-runt-tat-đi-lam


   3. Bảng hướng dẫn cách đọc tiếng Latin theo âm Việt ngữ :

   Trước hết cần lưu ý các âm trong hai ngôn ngữ khác nhau đương nhiên không bao giờ có cách phát âm giống hệt nhau. Các chỉ dẫn dưới đây chỉ đưa ra những cách đọc 'tương tự, gần giống' mà thôi.

   Bảng sau đây chỉ dẫn quy tắc căn bản để phát âm các chữ cái Latin, căn cứ trên 'Tableau des règles de la prononciation romain du latin' trích trong 'Cantus Missae et Officii'. Cách đọc này theo cách đọc của Giáo Hội Công giáo Rô-ma, có khác chút ít với cách đọc được chỉ dẫn trong các sách giáo khoa Latin (chẳng hạn của các tác giả H. Petit Mangin, Frederic M. Wheelock...).

   Một vài quy ước :

   Dấu theo sau một chữ phụ âm chỉ rằng phụ âm đó phải được phát âm nhưng không tạo thành một vần (âm tiết). Thí dụ :


      r’ :      đọc là r(ờ)
      l’ :      đọc là l(ờ)
      b’ :      đọc là b(ờ)
      p’ :      đọc là p(ờ)
      t’ :      đọc là t(ờ)
      c’, k’ : đọc là c(ờ)
      g’ :      đọc là g(ờ)
      x’ :      đọc là x(ờ).


           
   Điều này rất cần thiết để đọc các phụ âm kép trong tiếng Latin. Thí dụ :

      gloria : đọc g(ờ) luyến nhanh sang lô-ri-a, và được ghi là g’lô-ri-a (3 vần hay 3 âm tiết) ; đừng đọc tách ra gờ-lô-ri-a (tức là tới 4 vần hay 4 âm tiết là sai) ;

      scripturas : hai phụ âm x(ờ)c(ờ) đều đọc luyến theo trật tự đó sang rip-tu-ra và kết thúc bằng âm x(ờ), ghi là x’c’rip-tu-rax’ (cũng chỉ có 3 vần) ; đừng đọc thành xờ-cờ-rip-tu-ra-xờ (thành ra tới 6 vần là quá sai) ;

      brachio : đọc b(ờ) luyến sang ra-ki-ô, ghi là b’ra-ki-ô (3 vần) ;

      excelsis : đọc ê-trê rồi cong lưỡi để phát âm l (nhưng không thành tiếng 'lờ'), rồi đến tiếng xi và kết thúc bằng âm x(ờ), ghi là ê-trêl’-xix’ (3 vần) ; đừng đọc thành ê-trê-lờ-xi-xờ (5 vần là sai)...

Các nguyên âm đơn và đôi :

e :
   * trong mọi trường hợp đọc gần như ê Việt ngữ ; thí dụ :
   sedere                                       xê-đê-rê
   lege                                          lê-dzê

ae (hoặc viết æ) :
   * nguyên âm đôi, trong hầu hết trường hợp đọc gần như ê Việt ngữ ; thí dụ :
   caelo (hoặc cælo)                     trê-lô
   terrae (hoặc terræ)                    tê-rê
   quaecumque                             quê-cum-quê (3 vần)
             (hoặc quæcumque)
ae (hoặc viết ) :
   * trong các tên riêng không phải gốc Latin : đọc tách aê ; thí dụ :
   Israel (hoặc Israël)                    ix’-ra-êl’ (3 vần)
   Raphael (hoặc Raphaël)           ra-fa-êl’ (3 vần)
   Michael (hoặc Michaël)           mi-ca-êl’ (3 vần)
   Gabael (hoặc Gabaël)               ga-ba-êl’ (3 vần)
   Nathanael (hoặc Nathanaël)     na-ta-na-êl’ (4 vần)

oe (hoặc viết œ) :
   * nguyên âm đôi trong hầu hết trường hợp, đọc gần như ê Việt ngữ ; thí dụ :
   proelium (hoặc prœlium)         p’rê-li-um
   oboedivit (hoặc obœdivit)        ô-bê-đi-vit

oe (hoặc viết ) :
   * trong các tên riêng không phải gốc Latin : đọc tách ôê ; thí dụ :
   Ioel (hoặc Joël)                        yô-êl’ (2 vần)
   Doeg (hoặc Doëg)                   đô-êk’ (2 vần)
   Aroer (hoặc Aroër)                  a-rô-êr’ (3 vần)

o :
   * trong mọi trường hợp đọc gần như ô Việt ngữ ; thí dụ :
   nostro                                      nôx’-t’rô

u :
   * trong mọi trường hợp đọc gần như u Việt ngữ ; thí dụ :
   lupus                                       lu-pux’

au :
* nguyên âm đôi trong hầu hết trường hợp, đọc a luyến nhanh sang u, gần như au Việt ngữ và là 1 vần ; thí dụ :
   autem                                      au-têm (2 vần)
   causa                                       cau-za (2 vần)
   Faustinus                                 faux’-ti-nux’ (3 vần)
   haud                                        auđ’ (1 vần)
   haustae                                    aux’-tê (2 vần)
   lauda                                       lau-đa (2 vần)
   Saulus                                     xau-lux’ (2 vần)

au (hoặc viết ) :
   * trong các tên riêng không phải gốc Latin, đọc tách au (2 vần) ; thí dụ :
   Saul (hoặc Saül)                     xa-ul’ (2 vần)

eu :
   * trong hầu hết trường hợp đọc tách êu (2 vần) ; thí dụ :
   Deus                                       đê-ux’ (2 vần)
   Sedeur                                    xê-đê-ur’ (3 vần)
   Deuel                                      đê-u-êl (3 vần)
   meum                                     mê-um (2 vần)
   exeunt                                    êk’-xê-unt’ (3 vần)
   heu                                         ê-u (2 vần)

* nếu sau eu là một vần bắt đầu bằng một phụ âm (khi đó eu được coi là nguyên âm đôi), hiếm, thường gặp trong các tên riêng : đọc ê luyến nhanh sang u, gần như êu Việt ngữ (1 vần) ; thí dụ :
   euge                                        êu-dzê (2 vần)
   Eucharistia                              êu-ca-rix’-ti-a (5 vần)
   Eudes                                      êu-đêx’ (2 vần)
   Euphemia                                êu-fê-mi-a (4 vần)
   Europa                                    êu-rô-pa
   Eusebius                                 êu-zê-bi-ux’

ay :
   * rất hiếm, chỉ gặp trong rất ít tên riêng không phải gốc Latin, đọc a luyến nhanh sang i, gần như ai Việt ngữ (1 vần) ; thí dụ :
   Raymundus                             rai-mun-đux’ (3 vần)

oy :
   * rất hiếm, chỉ gặp trong rất ít tên riêng không phải gốc Latin, đọc ô luyến nhanh sang i, gần như ôi Việt ngữ (1 vần) ; thí dụ :
   Moyses                                       môi-zêx’ (2 vần)
   Aloysius                                     a-lôi-zi-ux’ (4 vần)

i, y :
   * trong mọi trường hợp đọc tương tự i Việt ngữ ; thí dụ :
   Isaia (hoặc Isaïa)                        i-za-i-a (4 vần)
   Kyrie                                          ki-ri-ê (3 vần)
   eleison                                       ê-lê-i-xôn (4 vần) (*)
   senior                                          xê-ni-ôr’ (3 vần)
   muriuntur                                    mu-ri-un-tur’ (4 vần)

j (có khi viết i, y) :
   * chính là chữ i khi đi trước một nguyên âm và hợp với nguyên âm đó thành một vần, đọc i luyến nhanh sang nguyên âm tiếp theo (đừng đọc thành như d Việt ngữ : alleluia đừng đọc thành a-lê-lu-da hay a-lê-lu-za) ; thí dụ :
   alleluia                                     a-lê-lu-ya (4 vần)
   Hyacinthus                               ya-xin-tux’ (3 vần)
   Benjamin (hoặc Beniamin)     bên-ya-min (3 vần)
   Hierosolyma                            yê-rô-zô-li-ma (4 vần)
   Jesus (hoặc Iesus)                    yê-zux’ (2 vần)
   Jerusalem                                 yê-ru-za-lêm (4 vần)
   ejiciam                                     ê-yi-tri-am (4 vần)
   Josue (hoặc Iosue)                   yô-zu-ê (3 vần)
   ejus (hoặc eius)                        ê-yux’ (2 vần)
   justum (hoặc iustum)               yux’-tum (2 vần)

Các phụ âm :

(sau đây trừ trường hợp cần thiết, sẽ không ghi số vần của mỗi từ nữa)

c :
   * đứng trước ae, oe, e, i, y : đọc tương tự tr Việt ngữ như trong 'tràn trề' ; thí dụ :
   caelum                                          trê-lum
   coepisset (hoặc cœpisset)            trê-pix-xêt
   ecce                                             ê-trê
   dicite                                           đi-tri-tê
   cymbalis                                     trim-ba-lix’

   * đứng trước a, o, u và các phụ âm : đọc tương tự c, k Việt ngữ như trong 'cà kê' ; thí dụ :  
   conglorificatur                            công-g’lô-ri-fi-ca-tur’ (6 vần)
   secundum                                    xê-cun-đum
   scripturas                                     x’c’rip-tu-rax’ (3 vần)
   Sancto                                          xangk’-tô
   benedictus                                    bê-nê-đik’-tux’

ch :
   * trong mọi trường hợp đọc tương tự c, k Việt ngữ như trong 'cà kê' ; thí dụ :
   pascha                                          pax’-ka
   cherub                                          kê-rup
   brachio                                         b’ra-ki-ô
   chorus                                          kô-rux’
   lerichum                                       lê-ri-kum
   Christo                                          k’ri-x’tô

g :
   * đứng trước ae, e, i, y : không có âm Việt ngữ tương đương, đọc nặng như j Anh ngữ trong July, January ; thí dụ :
   synagogae (hoặc synagogæ)      si-na-gô-dzê
   gemitus                                      dzê-mi-tux’
   agimus                                       a-dzi-mux’
   Aegyptum (hoặc Ægyptum)      ê-dzip-tum

   * đứng trước a, o, umột số phụ âm : đọc tương tự g (gh) Việt ngữ như trong 'gói ghém' ; thí dụ :
   gaudio                                       gau-đi-ô
   ego                                             ê-gô
   linguis                                       ling-gu-ix’
   glorioso                                    g’lô-ri-ô-xô

gg :
   * trong mọi trường hợp đọc tương tự g (gh) Việt ngữ như trong 'gói ghém' ; thí dụ :
   Naggae                                    na(c)-g(h)ê
   aggredia                                   a(c)-g’rê-đi-a
   aggerem                                   a(c)-g(h)ê-rêm

gn :
   * trong mọi trường hợp đọc tương tự nh Việt ngữ như trong 'nhá nhem' ; thí dụ :
   agnus                                          a-nhux’                
   Agnes                                          a-nhêx’ 

nc :
   * ở cuối vần mà vần tiếp theo là một phụ âm hoặc a, o, u ; hoặc cuối từ mà từ theo sau bắt đầu bằng nguyên âm bất kỳ : đọc tương tự ng cuối vần Việt ngữ, và đọc nối k- sang âm tiếp theo ; thí dụ :
   unctio                                          ungk’-ti-ô
   increpans                                    ing-k’rê-panx’
   speluncas                                    x’pê-lung-kax’ (3 vần)
   concupiscentia                            công-cu-pix’-trên-ti-a (6 vần)
   hinc inde                                     ingk’ (k)in-đê (1 vần + 2 vần)
   nunc antichristi                           nungk’ (k)an-ti-k’ri-x’ti (1 vần + 4 vần)

   * ở cuối vần mà vần theo sau bắt đầu bằng e, ae, i : đọc tương tự ng cuối vần Việt ngữ, và đọc nối tr- sang âm tiếp theo ; thí dụ :
   princeps                                     p’ring-trêpx’
   spenluncae                                 x’pên-lung-trê
   principio                                    p’ring-tri-pi-ô
   vincit                                         ving-trit

h :
   * trong mihi, nihil và các từ phái sinh : đọc tương tự k Việt ngữ như trong 'cây kim' ; thí dụ :
   mihi                                             mi-ki
   nihil                                             ni-kil’

   * trong các trường hợp khác : không đọc ; thí dụ :
   habens                                        a-bênx’
   haec (hoặc hæc)                         êk’ (1 vần)
   Herodes                                     ê-rô-đêx’
   hic                                             ik
   homo                                         ô-mô
   huic                                           u-ik (2 vần)
   hyssopo                                     i-xô-pô

qu :
   * trong mọi trường hợp đọc cu luyến nhanh sang nguyên âm tiếp theo, hợp với nguyên âm đó thành 1 vần ; thí dụ :
   quo                                             cuô (chớ đọc như ai đó hướng dẫn quo vadis 
                                                         mà đọc "quơ" ..., thật là quê mùa !)
   quam                                          cuam (1 vần ; na ná quam)
   quoque                                       cuô-cuê (2 vần ; na ná cuô-quê)
   quoniam                                    cuô-ni-am (3 vần)
   quintum                                     cuin-tum (2 vần ; na ná quin-tum)
   equus                                         ê-cux’ (2 vần, âm u đọc dài ra)

cu :
   * trong mọi trường hợp đọc cu thành 1 vần riêng biệt đối với nguyên âm theo sau ; thí dụ :
   pascua                                       pax’-cu-a (3 vần)
   docuerit                                       đô-cu-ê-rit (4 vần)
   cuius                                          cu-yux’ (2 vần)
   arcuum                                       ar’-cu-um (3 vần)

s :
   * ở các vị trí đầu từ, cuối từ, giữa từ sau một phụ âm, giữa từ trước một phụ âm : đọc tương tự x Việt ngữ như trong 'xa xôi' ; thí dụ :
   sabaoth                                       xa-ba-ot
   ambulas                                      am-bu-lax’
   excelsis                                       êk-trêl’-xix’
   phantasma                                  phan-tax’-ma
   respondens                                 rêx’-pôn-đênx’
   festina                                         fêx’-ti-na

   * ở giữa hai nguyên âm : đọc tương tự d Việt ngữ như trong 'dịu dàng' hay z trong 'zoo' Anh ngữ ; thí dụ :
   rosa                                            rô-za
   miserere                                    mi-zê-rê-rê
   dimisit                                       đi-mi-zit
   positus                                       pô-zi-tux’
   otiosos                                       ô-(t)xi-ô-zôx’
   resurgere                                    rê-zur’-g(h)ê-rê

   * trong các từ ghép (trừ các hậu tố là -sophus, -sophia) : đọc tương tự x Việt ngữ như trong 'xa xôi' ; thí dụ :
   prosit (bởi pro + sit)                     p’rô-xit
   praesumere (bởi prae + sumere)   p’rê-xu-mê-rê

sc :
   * đứng trước ae (æ), e, i : đọc tương tự x rồi luyến ngay sang tr Việt ngữ như trong 'tràn trề' ; thí dụ :
   muscae (hoặc muscæ)               mux’-trê
   descendit                                    đêx’-trên-đit
   cognoscimus                              cô-nhôx’-tri-mux’

   * đứng trước a, o, u và một số phụ âm : đọc x luyến sang k để nối với nguyên âm hoặc luyến sang phụ âm tiếp theo ; thí dụ :
   scandalum                                 x’kan-đa-lum
   scoriam                                      x’kô-ri-am
   vobiscum                                   vô-bix’-kum
   scribo                                         x’k’ri-bô

ss :
   * trong mọi trường hợp đọc tương tự x Việt ngữ ; thí dụ :
   esse                                             êx-xê
   Missa                                          mix-xa

ti :
   * giữa hai nguyên âm : đọc nhẹ hơn tr Việt ngữ, gần như x ; thí dụ :
   patientia                                      pa-(t)xi-ên-ti-a
   initio                                           i-ni-(t)xi-ô

tr :
   * trong mọi trường hợp đọc luyến từ t sang r, như 'tree' Anh ngữ, 'tract' Pháp ngữ (khác hẳn tr Việt ngữ trong 'tràn trề') ; thí dụ :
   nostra                                          nôx’-t’ra
   fratrem                                        f’ra-t’rêm
   patri                                             pa-t’ri
   vestros                                         vêx’-t’rôx’
   anterutrum                                   an-tê-ru-t’rum

x :
   * đứng trước ce, ci : đọc tương tự tr Việt ngữ như trong 'tràn trề' ; thí dụ :
   excelsis                                       ê-trêl’-xix’
   excidit                                         ê-tri-đit

   * cuối từ : đọc thành hai âm : kx ; thí dụ :
   ex                                                êkx’
   calix                                            ca-likx’

   * các trường hợp khác : đọc thành hai âm : hoặc kx hoặc gz ; thí dụ :
   Xaverius                                      k’xa-vê-ri-ux’
   dixit                                             đig’-zit
   exaudi                                          êg’-zau-đi
   exitus                                           êg’-zi-tux’

z :
   * trong mọi trường hợp đọc hơi nặng hơn d Việt ngữ, tương tự '-si-' Anh ngữ trong 'division' ; thí dụ :
   zelus                                          ʒê-lux’
   evangelizantur                           ê-van-dzê-li-ʒan-tur’
   baptizati                                     bap-ti-ʒa-xi
           

(*) Kyrie eleison vốn là từ gốc Hi-lạp. Mặc dù là 'Thánh Lễ theo nghi thức Rô-ma', nhưng Hội Thánh Công giáo Rô-ma vẫn giữ lại một số lời kinh (thường ngắn) bằng tiếng Hi-lạp được Latin hoá trong Thánh Lễ, như kinh Kyrie trong mọi Thánh Lễ, hoặc một hai kinh trong Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh, Thứ Bảy Tuần Thánh. Vì vậy, trong trường hợp eleison, dù chữ s đi giữa 2 nguyên âm, nhưng do phát âm theo âm gốc Hi-lạp nên chữ s này (vốn là chữ sigma) vẫn đọc là s mà không phải là z (trong tiếng Hi-lạp mẫu tự phát âm z là mẫu tự zeta, tuy nhiên có đọc là z theo thói quen đọc chữ Latin thì vẫn được chấp nhận).

   Lời khuyên chân thành :

   Dẫu sao ngoại ngữ vẫn là ngoại ngữ. Vì thế, nếu muốn hát tiếng Latin thì phải chịu khó bỏ công tập luyện phát âm cho đúng, đừng dễ dàng, đại khái, qua loa, chẳng bõ làm trò cười, gây chia lòng chia trí cho cả cộng đoàn.


C. CÁC BÀI TẬP ĐỌC :

   1. Tantum ergo

1. Tantum ergo sacramentum          tan-tum (m)er’-gô xa-c’ra-mên-tum
   Veneremur cernui,                        vê-nê-rê-mur’ trêr’-nu-i
   Et antiquum documentum            êt’ (t)an-ti-cum đô-cu-mên-tum
   Novo cedat ritui.                           nô-vô trê-đa ri-tu-i
   Praestet fides supplementum        p’rêx’-têt fi-đêx’ xup-p’lê-mên-tum
   Sensuum defectui.                        xên-xu-um đê-fêk’-tu-i
2. Genitori Genitoque                     dzê-ni-tô-ri dzê-ni-tô-quê
   Laus et jubilatio,                          laux’ (x)êt’ (t)yu-bi-la-(t)xi-ô
   Salus, honor, virtus quoque          xa-lux’ (x)ô-nôr vir’-tux’ cuô-quê
   Sit et benedictio ;                         xit’ (t)êt’ bê-nê-đik’-(t)xi-ô
   Procedenti ab utroque                   p’rô-trê-đên-ti ab’ (b)u-t’rô-quê
   Compar sit laudatio. Amen.          côm-par’ xit’ lau-đa-(t)xi-ô a-mên

   2. Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13)

1. Pater noster qui es in caelis,             pa-ter’ nôx’-ter’ qui êx’ (x)in trê-lix’
2. sanctificetur nomen tuum.               sangk’-ti-fi-trê-tur’ nô-mên tu-um
3. Adveniat regnum tuum,                    at’-vê-ni-at’ rê-nhum tu-um
4. Fiat voluntas tua                               fi-at’ vô-lun-tax’ tu-a
      sicut in caelo et in terra.                  xi-cut’ (t)in trê-lô êt’ (t)in tê-ra
5. Panem nostrum quotidianum            pa-nêm nôx’-t’rum cuô-ti-đi-a-num 
      da nobis hodie,                                đa nô-bix’ (x)ô-đi-ê
6. Et dimitte nobis debita nostra           êt’ đi-mit-tê nô-bix’ đê-bi-ta nôx’-t’ra
      sicut et nos dimittimus                    xi-cut’ (t)êt nôx’ đi-mit-ti-mux’
      debitoribus nostris.                          đê-bi-tô-ri-bus’ nôx’-trix’
7. Et ne nos inducas in tentationem,     êt’ nê nôx’ (x)in-đu-cax’ (x)in tên-ta-(t)xi-ô-nêm
      sed libera nos a malo. Amen.          xêt li-bê-ra nôx’ (x)a ma-lô a-mên

   3. Kinh Ngợi khen (Lc 1:46-55)

1. Magníficat ánima méa Dóminum :     ma-nhi-fi-cat (t)a-ni-ma mê-a đô-mi-num
2. Et exsultávit spíritus méus                  êt (t)êk’-xul’-ta-vit x’pi-ri-tux’ mê-ux’
      in Déo salutári méo.                          (x)in đê-ô xa-lu-ta-ri mê-ô
3. Quia respéxit humilitátem ancíllae      qui-a rêx’-pêg-zit (t)u-mi-li-ta-têm (m)an-tri-lê
      súae : ecce enim ex hoc beátam         xu-ê ê-trê ê-nim êg’z’ (z)ôc bê-a-tam
      me dícent ómnes generatiónes.          mê đi-trênt’ (t)ôm-nêx’ dzê-nê-ra-(t)xi-ô-nêx’
4. Quia fécit míhi mágna                         qui-a fê-trit mi-ki ma-nha
      qui pótens est :                                   qui pô-tênx’ (x)êx’t’
      et sánctum nómen éjus.                     êt xangk’-tum nô-mên (n)ê-yux’
5. Et misericórdia éjus a progénie           êt mi-zê-ri-côr’-đi-a ê-yu-x’ (x)a p’rô-dzê-ni-ê
      in progénies timéntibus éum.            in p’rô-dzê-ni-êx’ ti-mên-ti-bux’ (x)ê-um
6. Fécit poténtiam in bráchio súo :          fê-trit pô-tên-(t)xi-am (m)in b’ra-ki-ô xu-ô
      dispérsit supérbos ménte                   đix’-pêr’-xit xu-pêr’-bôx’ mên-tê
      córdis súi.                                          côr’-đix’ xu-i
7. Depósuit poténtes de séde,                  đê-pô-zu-it pô-tên-têx’ đê xê-đê
      et exaltávit húmiles.                          êt (t)êg-zal’-ta-vit (t)u-mi-lêx’
8. Esuriéntes implévit bónis :                  ê-zu-ri-ên-têx’ (x)im-p’lê-vit bô-nix’
      et dívites dimísit inánes.                    êt đi-vi-têx’ đi-mi-zit (t)i-na-nêx’
9. Suscépit Israel puérum súum,              xux’-trê-pit (t)ix’-ra-êl’ pu-ê-rum su-um
      recórdatus misericórdiae súae.           rê-côr’-đa-tux’ mi-zê-ri-côr-đi-ê xu-ê
10. Sicut locútus est ad pátres nóstros,     xi-cut lô-cu-tux’ (x)êx’t’ (t)at pa-t’rêx’ nôx’-t’rôx’
      Ábraham et sémini éjus in saécula.     a-b’ra-am (m)êt xê-mi-ni ê-yux’ (x)in xê-cu-la
11. Glória Pátri, et Fílio,                            g’lô-ri-a pa-t’ri êt fi-li-ô
      et Spirítui Sáncto.                                 êt x’pi-ri-tu-i xangk’-’tô
12. Sicut érat in princípio,                        xi-cut (t)ê-rat (t)in p’ring-tri-pi-ô
      et nunc, et sémper,                                êt nungk’ (k)êt xêm-pêr’
      et in saécula saeculórum. Amen.          êt (t)in xê-cu-la xê-cu-lô-rum a-mên

     4. Kinh Te Deum :

1. Te Deum laudamus :                       tê đê-um lau-đa-mux’
      te Dominum confitemur.                tê đô-mi-num con-fi-tê-mur’
2. Te aeternum Patrem                        tê ê-ter’-num pa-t’rêm
      omnis terra veneratur.                    ôm-nix’ tê-ra vê-nê-ra-tur’
3. Tibi omnes Angeli ; tibi Caeli         ti-bi ôm-nêx’ (x)an-dzê-li ti-bi trê-li
      et universae Potestates ;                 êt’ (t)u-ni-ver’-sê pô-têx’-ta-têx’
4. Tibi Cherubim et Seraphim             ti-bi kê-ru-bim (m)êt’ xê-ra-fim
      incessabili voce proclamant :          (m)ing-trêx-xa-bi-li vô-trê p’rô-k’la-mant’
5. Sanctus, Sanctus, Sanctus,                  sangk’-tux’ sangk’-tux’ sangk’-tux’
      Dominus Deus Sabaoth.                     đô-mi-nux’ đê-ux’ xa-ba-ot
6. Pleni sunt caeli et terra                        p’lê-ni xunt’ trê-li êt’ tê-ra
      maiestatis gloriae tuae.                        ma-yex’-ta-tix’ g-lô-ri-ê tu-ê
7. Te gloriosus Apostolorum chorus,      tê g’lô-ri-ô-xux’ (x)a-pôx’-tô-lô-rum ko-rux’
8. Te Prophetarum laudabilis numerus,  tê p’rô-fê-ta-rum lau-đa-bi-lix’ nu-mê-rux’
9. Te Martyrum candidatus                     tê mar’-ti-rum can-đi-đa-tux’
      laudat exercitus.                                   lau-đat’ (t)êg-zer-tri-tux’
10. Te per orbem terrarum                       tê per’ (r)ôr’-bem te-ra-rum
      sancta confitetur Ecclesia,                    sangk’-ta côn-fi-tê-tur’ (r)ê-k’lê-zi-a
11. Patrem immensae maiestatis :           pa-t’rêm (m)im-men-xê ma-yêx-ta-tix
12. Venerandum tuum verum                  vê-nê-ran-đum tu-um vê-rum
      et unicum Filium ;                                êt’ (t)u-ni-cum vê-rum
13. Sanctum quoque                                sangk’-tum cuô-quê
      Paraclitum Spiritum.                            pa-ra-k’li-tum x’pi-ri-tum
14. Tu Rex gloriae, Christe.                    tu rêk’x’ g’lô-ri-ê k’rix’-tê
15. Tu Patris sempiternus es Filius.        tu pa-t’rix’ xêm-pi-têr-nux’ (x)êx’ fi-li-ux’
16. Tu ad liberandum                              tu ađ’ li-bê-ran-đum
      suscepturus hominem,                          xux’-trêp-tu-rux’ (x)ô-mi-nêm
      non horruisti Virginis uterum.              nôn (n)ô-ru-ix’-ti vir’-dzi-nix’ (x)u-tê-rum
17. Tu, devicto mortis aculeo,                 tu đê-vik’-tô môr’-tix’ (x)a-cu-lê-ô
      aperuisti credentibus                             a-pê-ru-ix’-ti k’rê-đen-ti-bux’
      regna caelorum.                                   rê-nha trê-lô-rum
18. Tu ad dexteram Dei sedes,               tu ađ’ đêk’x’-tê-ram đê-i sê-đêx’
      in gloria Patris.                                    in g’lô-ri-a pa-t’rix’
19. Iudex crederis esse venturus.           yu-đêk’x’ k’rê-đê-rix’ (x)ê-xê vên-tu-rux’
20. Te ergo quaesumus,                         tê êr’-gô quê-xu-mux’
      tuis famulis subveni :                          tu-ix’ fa-mu-lix’ xub’-vê-ni
      quos pretioso sanguine redemisti.       cuôx’ p’rê-xi-ô-zô sang-gu-i-nê rê-đê-mix’-ti
21. Aeterna fac cum sanctis tuis            ê-têr-na fak cum sangk’-tix’ tu-ix’
      in gloria numerari.                              in g’lô-ri-a nu-mê-ra-ri

Phần xướng – đáp

V. Salvum fac populum tuum, Domine, X. xal’-vum fak’ pô-pu-lum tu-um đô-mi-nê
      et benedic hereditati tuae.                  êt bê-nê-đik’ (k)ê-rê-đi-ta-(t)xi tu-ê
R. Et rege eos,                                        Đ. êt’ rê-g(h)ê ê-ôx’
      et extolle illos usque in aeternum.      êt êk’x’-tôl’-lê il’-lôx’ (x)ux’-quê in ê-ter’-num
V. Per singulos dies benedicimus te.     X. pêr’ xing-gu-lôx’ đi-êx’ bê-nê-đi-tri-mux’ tê
R. Et laudamus nomen tuum                 Đ. êt’ lau-đa-mux’ nô-mên tu-um
      in saeculum,                                       in xê-cu-lum
      et in saeculum saeculi.                       êt’ (t)in xê-cu-lum xê-cu-li
V. Dignare, Domine,                             X. đi-nha-rê đô-mi-nê
      die isto sine peccato nos custodire.    đi-ê ix’-tô xi-nê pêk-ca-tô nôx’ cux’-tô-đi-rê
R. Miserere nostri, Domine,                  Đ. mi-zê-rê-rê nôx’-t’ri đô-mi-nê
      miserere nostri.                                   mi-zê-rê-rê nôx’-t’ri
V. Fiat misericordia tua,                        X. fi-at’ mi-zê-ri-côr’-đi-a tu-a
      Domine, super nos,                            đô-mi-nê xu-pêr’ nôx’
      quemadmodum speravimus in te.      quê-mađ’-mô-đum x’pê-ra-vi-mux’ (x)in tê
R. In te, Domine, speravi :                     Đ. in tê đô-mi-nê x’pê-ra-vi
      non confundar in aeternum.               nôn côn-fun-đar’ (r)in (n)ê-têr-num



Không có nhận xét nào: