KINH
CHÚA THÁNH THẦN –
GẦN 400 NĂM TUỔI
Trước Công đồng chung Tridentinô (1545-1563), khá nhiều
thánh lễ có Ca tiếp liên (Latin : Sequentia) : đó là bài kinh được hát sau lời
Ca ngợi Phúc Âm (Gospel acclamation) hay Alleluia, trước bài Phúc Âm.
Trong các bài Ca tiếp liên đó, có bài Veni Sancte Spiritus (= Lạy Chúa
Thánh Thần xin ngự đến). Bài này còn được gọi là Ca tiếp liên Vàng (Golden
Sequence) vì tư tưởng phong phú, từ ngữ súc tích, cho thấy người sáng tác phải
có lòng yêu mến Chúa Thánh Thần rất nồng nàn, tin tưởng cậy trông Chúa Thánh
Thần rất sâu xa, chân thành, cảm nhận được sự gần gũi thân mật của Chúa Thánh
Thần. Người ta cho rằng tác giả của lời kinh hoặc là đức Innocente III (làm
Giáo hoàng từ 1198 đến 1216 ; ngài cũng còn được coi là tác giả của một bài Ca tiếp
liên khác : bài Stabat Mater = Mẹ đứng đau thương, được hát trong thánh
lễ kính Đức Mẹ sầu bi, ngày 15-9, và theo truyền thống, hát mỗi khi đi đàng
Thánh Giá). Hoặc cũng có thể tác giả của Veni Sancte Spiritus là đức
Hồng y Stephen Langton, Tổng giám mục giáo phận Canterbury (đức
Hồng y còn là người giữ vai trò trung tâm trong thoả thuận giữa vua Anh là
Gioan với đức Giáo hoàng Innocente III, dẫn đến việc ký Đại Hiến chương Magna
Charta năm 1215, hạn chế “thần quyền” các vua chúa dân sự, song vẫn bảo đảm
các thường quyền cho các vị đó ; ngài cũng được coi là người đã chia các sách
Kinh Thánh thành đoạn, câu như được dùng ngày nay).
Công đồng Tridentinô đã quy định lại nghi thức Thánh Lễ,
chỉ giữ lại một số lễ có Ca tiếp liên, trong đó có cả hai bài nói trên, cùng
với các bài Victimae Paschali Laudes (= Các tín hữu hãy dâng lời ca
tụng) trong Thánh Lễ Chúa nhật Phục sinh, bài Lauda Sion (= Sion hãy
ngợi khen) trong Thánh Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bài Dies Irae (= Ngày nổi
giận) trong Thánh Lễ cầu cho các đẳng linh hồn ngày 2-11.
Hình 1 : kinh Veni
Sancte Spiritus trong Missale Romanum,
bản in năm 1572
Bài Ca tiếp liên đó chính là
bài kinh được nhiều nhà thờ thuộc các giáo phận Bắc hoặc gốc Bắc cho đến nay
vẫn còn đọc trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có dạng sau đây (hoặc có
thể khác một đôi chữ) :
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần, xin xuống sáng thật cho
chúng con. Đức Chúa Thánh Thần là Cha thật chúng con, hay nuôi những kẻ khó
khăn, là Chúa rộng rãi, là ngàn mọi phúc đức, là sáng láng hay soi hết lòng
người ta, xin xuống cho chúng con. Cha rất nhân hay yên ủi kẻ âu lo, vào trong
linh hồn chúng con cho được vui mừng, khỏi khó nhọc mà được nghỉ, khỏi sốt mà
được mát, khỏi khóc lóc mà được vui thật ; lại xin sáng cực trọng vào trong
linh hồn kẻo còn tối. Đức Chúa Thánh Thần chẳng có phù hộ thì chẳng được phúc
gì, cùng chẳng được khỏi tội lỗi. Chớ gì Cha rất khoan, rửa linh hồn chúng con
kẻo còn dơ, tưới nước cực thanh kẻo còn khô, lấy thuốc thánh sủng chữa dấu tích
trong linh hồn chúng con cho đã ; chớ gì uốn sự cứng trong linh hồn chúng con
cho dịu, che lòng lạnh cho ấm, bảo đàng thật kẻo lạc mà sa hỏa ngục vô cùng.
Cha rất khoan chớ gì xuống cho chúng con bẩy ơn cả cho rày được công thật mà
ngày sau được rỗi linh hồn và vui vẻ vô cùng ở trên trời. Amen.
Bản kinh trên đây chính là dạng đã sửa đổi vài chỗ từ bản
dịch Ca tiếp liên Veni Sancte Spiritus ra tiếng Việt của cha Majorica. Khi
cha Girolamo Majorica (1591-1656) sang truyền giáo tại nước ta, ngài đã học
thông thạo tiếng Việt, soạn nhiều sách về các lẽ đạo, hoặc dịch các sách từ
tiếng Latin sang tiếng Việt. Trong các tác phẩm của ngài viết bằng Chữ
Nôm còn được lưu lại, có quyển Kinh những lễ mùa Phục sinh – Quyển chi
tam 經仍礼務復生 - 卷之三 . Bản kinh Chúa Thánh Thần lần đầu
tiên đã xuất hiện trong quyển kinh nguyện này. Dưới đây là bản phiên âm ra chữ
Quốc Ngữ theo nguyên văn Chữ Nôm, cùng đánh số câu để dễ đối chiếu :
1). Chúng tôi lạy ơn Đức Chúa (S)pi-ri-to San-to
2). là Cha thật chúng tôi, hay nuôi những kẻ khó khăn, là
Chúa rộng rãi ngàn mọi phúc đức, là sáng láng vô cùng hay soi hết lòng người
ta, xin xuống cùng chúng tôi.
3). Cha rất nhân đến an ủi âu lo, vào trong linh hồn chúng
tôi cho được vui thật,
4). khỏi khó nhọc mà được nghỉ, khỏi sốt mà được mát, khỏi khóc lóc cho được vui thật,
4). khỏi khó nhọc mà được nghỉ, khỏi sốt mà được mát, khỏi khóc lóc cho được vui thật,
5). lại xin sáng xuống cực trọng vào trong linh hồn chúng
tôi kẻo tối.
6). Đức Chúa (S)pi-ri-to San-to chẳng có
phù hộ thì chẳng có phúc gì, cùng chẳng được khỏi tội lỗi.
7). Chớ gì Cha rất khoan rửa linh hồn chúng tôi kẻo còn dơ,
tưới nước cực thiêng kẻo còn khô, lấy thuốc gʼra-sa chữa dấu
tội chúng tôi cho đã.
8). Chớ gì uốn sự rắn vào trong linh hồn cho được dịu, che
lòng lạnh cho được ấm, bảo đàng thật kẻo lạc mà sa xuống địa ngục.
9). Cha rất lành, chớ gì xuống cho chúng tôi bảy ơn cả
10). cho rầy được ơn thật, mà ngày sau được rỗi linh hồn,
và vui mừng vô cùng ở trên trời.
Hình 2 : kinh Chúa Thánh
Thần trong
tác phẩm của cha Majorica
Nguyên văn Latin :
1). Veni, Sancte Spiritus,/ et emitte cælitus / lucis
tuæ radium.
2). Veni, pater pauperum,/ veni, dator munerum,/ veni,
lumen cordium.
3). Consolator optime,/ dulcis hospes animae,/ dulce
refrigerium.
4). In labore requies,/ in aestu temperies,/ in fletu
solacium.
5). O lux beatissima,/ reple cordis intima / tuorum
fidelium.
6). Sine tuo numine,/ nihil
est in homine,/ nihil est innoxium.
7). Lava quod est sordidum,/ riga quod est aridum,/ sana
quod est saucium.
8). Flecte quod est rigidum,/ fove quod est frigidum,/ rege
quod est devium.
9). Da tuis fidelibus,/ in te confidentibus,/ sacrum
septenarium.
10). Da virtutis meritum,/ da saliitis exitum,/ da perenne
gaudium.
Trong Latin thì gọn, nhưng cha Majorica dịch sang tiếng
Việt khá dài, có thể là vì ngôn ngữ Việt lúc bấy giờ nếu không diễn tả dài
dòng, thì có lẽ sẽ gây khó hiểu hoặc hiểu sai. Thí dụ như câu 2). với hai chữ
là “pater pauperum” (= cha của những kẻ nghèo), mà lời kinh Việt ngữ
được cha Majorica dịch ra dùng đến mười chữ là “[là] Cha thật
chúng tôi, hay nuôi những kẻ khó khăn”. Lại có những chữ bỏ qua không dịch,
như trong câu đầu tiên có : “Veni, ... [et] emitte cælitus lucis
tuæ radium”, hoặc câu 9). “tuis fidelibus, in te confidentibus” (xin xem bên dưới) ; đồng thời lại thêm vào những chữ mà trong nguyên văn Latin không có, như
trong câu 7). : “riga quod est aridum” (= tưới, tắm, làm ướt chỗ, nơi,
kẻ... khô ráo, khô khan) thì bản dịch của cha Majorica là : “tưới nước
cực thiêng kẻo còn khô” ; hoặc cũng câu 7). này “Chớ gì Cha rất
khoan” là những chữ không có trong nguyên văn Latin. Tương tự thế trong câu
9). : “Cha rất lành”. Ngoài ra, có thể cha Majorica sợ người giáo dân
lúc đó hiểu không thấu đáo chăng, nên trong câu 7). : “... sana quod est
saucium” (= xin hãy chữa lành kẻ đau yếu, bị thương tích) được dịch là : “lấy thuốc gʼra-sa chữa
dấu tội chúng tôi cho đã”...
Khoảng cuối thế kỉ XIX, trong sách Thánh Giáo Kinh Nguyện 聖 教 經 願 , in năm 1866, do “ 監牧樞槎昭傳梓
Giám mục Giu-se Chiêu truyền từ”, lời kinh trên đây đã được đổi lại với dạng hơi
khác đôi chút, nguyên văn được phiên âm ra chữ Quốc Ngữ như sau :
Kinh Đức Chúa (S)pi-ri-to San-to
1). Chúng tôi lạy ơn Đức Chúa (S)pi-ri-to
San-to xin xuống sáng thật cho chúng tôi.
2). Đức Chúa (S)pi-ri-to San-to
là Cha thật chúng tôi, hay nuôi những kẻ khó khăn, là Chúa rộng rãi, là ngàn
mọi phúc đức, là sáng láng hay soi hết lòng người ta, xin xuống cho chúng tôi.
3). Cha rất nhân hay an ủi kẻ âu lo,
vào trong linh hồn chúng tôi cho được vui mừng ;
4). khỏi khó nhọc mà được nghỉ, khỏi
sốt mà được mát, khỏi khóc lóc mà được vui thật ;
5). lại xin Sáng cực trọng vào trong
linh hồn kẻo còn tối.
6). Đức Chúa (S)pi-ri-to San-to
chẳng có phù hộ thì chẳng được phúc gì, cùng chẳng được khỏi tội lỗi.
7). Chớ gì Cha rất khoan rửa linh hồn
chúng tôi kẻo còn dơ, tưới nước cực thanh kẻo còn khô, lấy thuốc gʼ-ra-sa
chữa dấu tích trong linh hồn chúng tôi cho đã.
8). Chớ gì uốn sự cứng trong linh hồn
chúng tôi cho dịu, che lòng lạnh cho ấm, bảo đàng thật kẻo lạc mà sa địa ngục
vô cùng.
9). Cha rất khoan, chớ gì xuống cho
chúng tôi bảy ơn cả ;
10). rầy cho công thật, mà ngày sau
được rỗi linh hồn, và vui vẻ vô cùng ở trên trời. A-men.
Hình 3 : kinh Chúa Thánh Thần trong
sách
Thánh Giáo Kinh
Nguyện của đức Giám mục Giu-se Chiêu
Giuse Chiêu, chữ Nôm trong
nguyên bản là 樞槎昭 , là tên Việt Nam của đức Giám mục Joseph Simon Theurel, Hội Thừa
sai Paris. Ngài sinh ngày 27-10-1829 tại nước Pháp, thụ phong Linh mục ngày
5-6-1852, Giám mục ngày 6-3-1859, hiệu toà Achanthus (Acanthe), làm phó Đại diện
Tông toà địa phận Tây Đàng Ngoài từ 1859 đến ngày 24-7-1866, Đại diện Tông toà
Tây Đàng Ngoài từ 24-7-1866 cho đến khi tạ thế ngày 3-11-1868 tại Kẻ Sở. Ngài
thông thạo tiếng Việt, đã soạn quyển tự điển Dictionarium annamitico-latinum,
được nhà xuất bản Ninh Phú in lại vào năm 1877 sau khi ngài qua đời. Vì thế,
hai chữ 傳梓 truyền từ ở trang tựa sách có thể hiểu là chính
ngài đã dọn lại các kinh trong quyển Thánh Giáo Kinh Nguyện này. Các chỗ
sửa lại kinh Veni Sancte Spiritus trong bản này :
“Veni, ... [et] emitte cælitus
lucis tuæ radium” trong câu 1). được dịch thành : “xin xuống sáng thật
cho chúng tôi” ; ở câu 3). “vui thật” của bản Majorica
được sửa thành “vui mừng” ; ở câu 5). bỏ “chúng tôi”
; ở câu 7). sửa “nước cực thiêng” ra “nước cực thanh”
(bản đăng trên trang mạng của Tổng Giáo phận Hà Nội in là “nước cực thánh”)
; câu 10). “cho rầy được ơn thật” sửa thành “rầy
cho công thật”, mất chữ “được” làm cho câu hơi khó
hiểu.
Có mấy chỗ dùng từ ngữ đã xưa :
* khoan : tiếng Hán Việt : Thuyết Văn Giải Tự : 屋寬大也 ốc khoan đại dã = nhà rộng to ; Quảng
Vận : 愛也 , 裕也 ; 舒也 ái dã, dụ dã [= rộng rãi] ; thư dã [=
thong thả, chậm rãi] ; Tăng Vận : 不猛也 bất mãnh dã =
không mạnh bạo ; Cha rất khoan = Cha rất rộng rãi, rất hay tha thứ ;
* [nước] cực thanh : [nước]
rất trong sạch ;
* dấu tích : tđ Việt – Bồ
– La của cha Alexander de Rhodes : “dấu : vide dĕấu” ; “dĕấu : vulnus,
eris” (= vết thương) ; “tích, bết tích [= vết tích] : cicatrix, icis.
dấu tích, idem” (= cũng nghĩa như vậy [vết sẹo]) ; dấu tích = thương tích ;
* đã : tđ VBL : “đã : sanari”
(= được khỏi, được chữa lành) ; “đã đã : jam convaluit, vel cum convaluerit”
(= đã bình phục, đã khỏi, khoẻ lại) ; nhiều người vì không hiểu nghĩa của tiếng
“đã” này, nên đáng lẽ phải nói “thuốc đắng đã tật”, có
nghĩa là “thuốc tuy đắng nhưng chữa khỏi bệnh”, thì lại nói thành một câu vô
nghĩa là “thuốc đắng dã / giã tật” ! Trong lời kinh Domine, non sum
dignus... bằng tiếng Việt từ rất xưa : “Lạy Chúa tôi, tôi chẳng đáng Chúa tôi ngự vào nhà linh hồn tôi, song le Chúa tôi phán một lời, thì linh hồn tôi liền đã”.
Vì thấy từ ngữ đã cũ, nên bản Sách Lễ Hiện Tại (1969) đã đổi lại dạng
“... thì linh hồn tôi sẽ lành mạnh” ;
* rỗi linh hồn : tđ VBL :
“rỗi : quies, etis (= sự nghỉ ngơi), effugium poenae (= thoát
khỏi hình phạt) ; rỗi linh hồn : salus animae (= linh hồn được cứu)”.
* cho rầy được ơn thật : có nghĩa là “hầu cho nay được ơn thật”.
* cho rầy được ơn thật : có nghĩa là “hầu cho nay được ơn thật”.
Nhìn chung, qua gần ba thế kỷ kể từ
bản kinh của cha Majorica cho đến bản trong Thánh giáo Kinh nguyện,
về đại thể không có thay đổi gì nhiều. Đến nay, kinh vẫn còn được đọc với dạng
như trong Thánh giáo Kinh nguyện (và cả các sai sót), chỉ đổi
hai chữ Latin là (S)pi-ri-to San-to thành Thánh
Thần, và gʼra-sa thành thánh sủng. Như thế là
đến đầu thế kỉ XXI này, tuổi thọ của nguyên bản kinh Veni Sancte Spiritus
trong Latin đã được 800 năm, còn bản dịch tiếng Việt thành kinh Chúa
Thánh Thần cũng đã được gần 400 năm !
Xin giới thiệu sau đây một vài bản
dịch Việt ngữ khác cho bài Ca tiếp liên Veni Sancte Spiritus này
:
I.
Bản dịch trong Sách Lễ Hiện Tại (1969) :
1). Xin Chúa Thánh Thần ngự đến, và từ
trời gởi xuống một tia ánh sáng Người.
2). Nguyện xin Cha kẻ khó khăn hãy
đến, hãy đến, lạy Đấng ban phát muôn ơn, hãy đến, lạy Đấng soi sáng tâm hồn.
3). Người là Đấng an ủi, là Khách vỗ
về tâm hồn, là Đấng bổ dưỡng dịu hiền.
4). Người là an nghỉ trong lao khổ, là
mát dịu trong cơn nóng sốt, là an ủi trong lệ sầu.
5). Lạy Mạch Sáng hồng phúc, xin đổ
xuống đầy tràn tâm hồn tín hữu Chúa.
6). Nếu không ơn thần lực, con người
chẳng có gì, chẳng có gì vẹn sạch.
7). Xin Chúa rửa những nhơ nhớp, xin
tưới chỗ khô khan, xin chữa lành vết thương.
8). Xin uốn lòng cứng cỏi, sưởi ấm chỗ
lạnh lùng, nắn lại những sai lệch.
9). Xin ban cho các tín hữu, những kẻ
tin ở Chúa, bảy ơn thánh của Người.
10). Xin thưởng công nhân đức, xin dắt
họ về bến cứu độ, và ban cho muôn kiếp hân hoan (Amen. Alleluia).
II.
Bản dịch của Uỷ ban Giám mục về Phụng vụ, Sách Bài đọc mùa
Chay và mùa Phục sinh, 1972 :
(CA
TIẾP LIÊN)
1). Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự
đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra.
2). Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự
đến, Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến.
3). Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, là khách
trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng uỷ lạo dịu dàng.
4). Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh
lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi.
5). Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc,
xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn tín hữu của Ngài.
6). Nếu không có Chúa trợ phù, trong
con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội.
7). Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn,
tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích.
8). Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm
chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường.
9). Xin Chúa ban cho các tín hữu là
những người tin cậy Chúa được ơn bảy nguồn.
10). Xin ban cho họ được huân nghiệp
nhân đức, được hạnh phúc cứu độ, và được hoan hỉ đời đời.
III.
Bản dịch của Nhóm phiên dịch CGKPV (không rõ năm) ; bản này
dịch theo lối văn vần, cứ mỗi ba câu Latin được dịch thành 4 câu ngũ
ngôn, do đó tuy đọc lên có vần có điệu, nhưng không thể sát nghĩa so với nguyên
văn, vì có những chỗ thừa như : câu 3). : dòng suối mát chảy tuôn ;
câu 4). : tay hiền lau giọt lệ ; câu 5). : cho rực rỡ trinh
trong ; câu 6). : kẻ phàm nhân cát bụi ; câu 10). : sau
giờ phút lâm chung..., do đã thay 3 câu bằng 4 câu. Ngoài ra, có những chỗ
khá xa với nguyên tác, thí dụ : câu 5). : trong “O
lux beatissima”, beatissima là superlat., voc., fem. của hình
dung từ beatus, a, um, có thể dịch là “rất có phúc”, “có phúc nhất”, hay
văn vẻ thì như một thí dụ của 吳金瑞 Ngô Kim Thuỵ : caelestis aulae beatissimi
proceres được dịch là 天廷極有福之朝臣 thiên đình cực hữu phúc chi triều thần = các triều
thần rất có phúc trên thiên đình. Vì thế, “o lux beatissima” được dịch
là “lạy mạch sáng hồng phúc” (SLHT) hay “ôi sự sáng chứa chan hồng
phúc” (sách BĐ Mùa Chay và Mùa Phục Sinh) là hoàn toàn sát nghĩa, trong đó “hồng”,
mặt chữ Nho là 洪 , có thể xem là
tương đương với 極 cực (= lớn lao, to
tát, nhiều, rất, lắm). Bản dịch của cha Majorica : “xin Sáng cực trọng
vào trong linh hồn” cũng phải kể là sát nghĩa. “Hồng” ở hai bản dịch
trên chẳng qua chỉ diễn tả nghĩa của hậu tố -issimus, a, um, nếu không
có “phúc” là “beat-” thì nghĩa câu thành lơ lơ lửng lửng. Bản
dịch CGKPV : “hỡi hào quang linh diệu xin chiếu giãi ánh hồng” vừa sai,
vừa thừa, vừa thiếu. Trong nguyên tác Latin không hề có từ nào có thể
dịch là “linh diệu”, đồng thời “ánh hồng” chỉ có thể hiểu là “ánh
gì đó mầu đỏ” mà không hẳn là “ánh sáng”, nếu gượng gạo thì có thể giải nghĩa
là “ánh gì đó lớn lao”, và như thế thì thành rất xa nguyên tác Latin,
trong khi không thấy từ ngữ nào dùng để dịch “reple [cordis] intima”
và “tuorum [fidelium]”. Tham khảo bản dịch trong Sách Lễ Rôma của anh em
Công giáo người Hoa : 5). 具有萬福萬樂的神光 , 求袮對于信仰袮的人們 , 充滿他們的心坎 Cụ hữu vạn phúc
vạn lạc đích thần quang, cầu Nễ đối vu tín ngưỡng Nễ đích nhân môn, sung mãn
tha môn đích tâm khảm = xin Người đổ đầy lòng những kẻ tin vào Người ánh sáng
thần [chữ dư thừa] có đủ mọi phúc lạc.
Sau đây là toàn văn bản dịch CGKPV :
1). Muôn lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến trần gian,
tự trời cao gửi xuống nguồn ánh sáng toả lan.
2). Lạy Cha kẻ bần hàn, Đấng tặng ban
ân điển và soi dẫn nhân tâm, cúi xin Ngài ngự đến.
3). Đấng ủi an tuyệt diệu, thượng
khách của tâm hồn, ôi ngọt ngào êm dịu, dòng suối mát chảy tuôn.
4). Khi vất vả lao công, Ngài là nơi
an nghỉ, gió mát đuổi cơn nồng, tay hiền lau giọt lệ.
5). Hỡi hào quang linh diệu, xin chiếu
giãi ánh hồng vào tâm hồn tín hữu cho rực rỡ trinh trong.
6). Không thần lực phù trì, kẻ phàm
nhân cát bụi thật chẳng có điều chi mà không là tội lỗi.
7). Hết những gì nhơ bẩn, xin rửa cho
sạch trong, tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương.
8). Cứng cỏi uốn cho mềm, lạnh lùng
xin sưởi ấm, những đường nẻo sai lầm sửa sang cho ngay thẳng.
9). Những ai hằng tin tưởng trông cậy
Chúa vững vàng, dám xin Ngài rộng lượng bảy ơn thánh tặng ban.
10). Nguyện xin Chúa thưởng công cuộc
đời dày đức độ, ban niềm vui muôn thuở sau giờ phút lâm chung.
(A-men, Ha-lê-lui-a.)
IV. Trong Thiên
Chúa Thánh giáo nhựt khoá tịnh Chúa nhựt pháp (Sách Mục Lục,
bản in sau 1975, không đề năm ; bản cũ trước 1975 mất nhiều trang đầu nên cũng
không rõ năm ; cách riêng đối với kinh này, cả hai bản hoàn toàn giống
nhau), Đệ thất thiên (= Thiên thứ 7), Đồng niên tổng
kinh văn (Các kinh đọc quanh năm), mục III. Ca hát trong mùa
Phục sinh, Kinh số 10. Cúi lạy Chúa Thánh Thần. Bản kinh này
cũng là bản dịch theo ý của Veni Sancte Spiritus ra lối biền
văn có đối. Toàn bản kinh có 10 liên từng hai vế đối nhau. Do phải theo luật
làm văn đối ngẫu, nên việc thêm thắt là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên
cũng xin giới thiệu để thấy các cụ xưa phải thấm nhuần nghĩa lý của nguyên văn Latin
mới có thể phóng tác thành bản kinh Việt ngữ :
Liên 1 Cúi
lạy Chúa Thánh Thần /
Xin đoái loài ngu hạ.
Liên 2 Sáng
thiêng soi xuống, thấu tấm lòng con mọn u mê /
Ơn trọng ban ra, trông lượng Chúa Cha chưng cô
quả.
Liên 3 Chúa
ủi an khéo léo, thấu tai ai nấy đặng toại tình /
Người thăm viếng ngoan nguỳ, ngự lòng chúng thảy
đều phỉ dạ.
Liên 4 Kẻ
vì Chúa dãi dầu mỏi nhọc, trả bội phần êm mát thảnh thơi /
Kẻ trách mình khóc lóc lo âu, hưởng mọi nỗi vui
mừng xong xả.
Liên 5 Chúa
thật Sáng, chói loà phê phủ, giúp phô người chuyên vững lòng tin /
Chúa thông soi khóc lóc phàm gian, làm các việc
khôn từ thửa vạ.
Liên 6 Kẻ
khó khăn, người ô uế, xin Chúa cho trong sạch đượm nhuần /
Người yếu ốm, kẻ tích thương, xin Chúa dạy bình
an lành đã.
Liên 7 Chưng
ấm người dạ tuyết lòng sương /
Uốn mềm kẻ gan chì phổi đá.
Liên 8 Kẻ
đã đi nẻo lạc quanh co /
Chúa đem lại đàng ngay thong thả.
Liên 9 Giáo
hữu chí bền trông cậy, bảy ơn thiêng hiệu thiết xin ban /
Công linh phước thưởng rõ ràng, một phần rỗi nhơn
từ nguyện trả.
Liên 10 Chốn
tiêu dao đặng tới chầu chực Ba Ngôi /
Nơi trần thế hằng trông ngửa nhờ đức cả.
(Amen.)
Một
vài từ ngữ :
* loài
ngu hạ : ngu = dốt nát, tối tăm ; hạ = hèn kém, thấp kém ; loài ngu hạ =
loài ngu dốt hèn kém ;
* trông
lượng Chúa Cha chưng cô quả : cô : chữ Nho : 孤 , có nghĩa là mồ côi, lẻ loi ; quả : chữ
Nho : 寡 , có nghĩa là người ở goá ; cô quả là từ ngữ
dùng chỉ chung những người không biết nương tựa nhờ cậy vào đâu ; “chưng”
là tiếng dịch Nôm của chữ Nho 之 chi ; cả câu hiểu là : ơn Chúa ban là chỗ trông
cậy của những kẻ cô quả ;
* toại
tình / phỉ dạ = vừa ý vừa lòng ;
* ngoan nguỳ : Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của
Huình-Tịnh Paulus Của : “ngoan nguỳ : khôn ngoan, nhon lành” ;
* xong xả : HTC : “xong : xuôi xả, huờn
thành (= hoàn thành) ; xong xả : id” (= cũng nghĩa như vậy) ;
* phê
phủ = phủ phê : HTC : “phủ phê : no đủ dư giả, chẳng thiếu sự chi” ;
* phô
: HTC : “phô : tiếng xưng hô nhiều người” ;
* thửa
: tiếng dịch Nôm chữ Nho 其 kỳ, có nghĩa là của nó, của họ... ; khôn từ thửa vạ =
không kể gì đến tội vạ của nó ; cả câu : Chúa thông soi ... = Chúa thấu tỏ lũ
người phàm đang khóc lóc, làm cho nó mọi việc mag không kể đến tội vạ nó đáng
phải chịu ;
* chưng
(ấm) : chưng ở câu này có nghĩa là “đun cho nóng lên” ;
* hiệu
thiết : tức là thiết hiệu : 切效 = có công hiệu chắc chắn ;
* chốn tiêu dao : tiêu dao 逍遙 = thong thả, nhàn nhã, không bị ràng buộc ; chốn
tiêu dao : nơi không còn vướng bận vào bất cứ nỗi lo lắng nào = cõi trời.
Lễ Chúa Thánh Thần 2017
Lễ Chúa Thánh Thần 2020
Bùi Ngọc Hiển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét