Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2019

SỰ THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU


SỰ THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU
VÀ CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI

Dịch theo :
The Passion and Death of Jesus của giáo sư Kinh Thánh Felix Just, S.J., Ph.D.

    Dù cuộc Thương khó của Chúa Giêsu được tường thuật trong bốn bản Phúc Âm đều có nhiều điểm tương đồng, nhưng vẫn có những dị biệt rõ rệt giữa các bản đó. Trong nhiều phương diện, ba bản Cộng lãm khá tương hợp (vì Matthêu và Luca hầu hết dựa trên bản Marcô), trong khi bản Gioan lại khác hoàn toàn, nhất là về thời gian. Về một số phương diện khác, trong khi bản Matthêu và Marcô khá đồng nhất, thì bản Luca lại khác hai bản này và gần với bản Gioan hơn. Ngoài ra còn một vài chi tiết quan trọng, thậm chí cả từng đoạn dài, chỉ gặp thấy ở một trong bốn bản PÂ.

1. NHỮNG ĐIỂM NHẤN MẠNH TRÊN TỔNG THỂ

Mỗi bản PÂ nhấn mạnh điều gì trong các tường thuật về cuộc Thương khó ?

- Bản Marcô : sự thống khổ của Chúa Giêsu, việc Người bị từ khước cách đau đớn, bị kết án bất công, bị tra tấn cách ác độc, bị sỉ nhục kinh khủng, và bị ngược đãi cách dữ dằn bởi đám đông.
- Bản Matthêu : vương vị của Chúa Giêsu, cách những nhà cầm quyền (cả tôn giáo như các thượng tế, cả phần đời như Pilatus) âm mưu loại bỏ kẻ họ coi như mối đe dọa chính trị.
- Bản Luca : sự hoàn toàn vô tội của Chúa Giêsu, cách Pilatus (và cả những kẻ khác như Herode Antipas, viên bách quản, kẻ trộm lành) nói rằng Người không đáng phải chết, cũng như nhìn nhận sự vô tội của Người.
- Bản Gioan : sự cao cả của Chúa Giêsu, cách Người chịu những sự vu cáo, hướng dẫn mọi hành động, hoàn tất ý muốn của Cha, và sau cùng được tôn vinh khi Người chỗi dậy từ cõi chết.

2. NHỮNG CHỐNG ĐỐI CHÚA GIÊSU

Tại sao các kẻ có quyền lại thấy Chúa Giêsu như một mối đe dọa lớn ?

- PÂ Cộng lãm :
    * Trong tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong PÂ Matthêu, vua Herode đã dự mưu tiêu diệt Người, tiêu diệt “vua Do-thái” mới sinh ra (Mt 2:13-18).
    * Trong các bản PÂ đã thuật lại sự chống đối Chúa Giêsu nổi lên từ sớm, hầu hết bắt đầu bằng việc Người phá vỡ luật ngày Sabbath (Mc 3:6, Mt 12:14).
    * Ngay sau sự việc thanh tẩy Đền thờ, các thượng tế đã thử giết Chúa Giêsu (Mc 11:18, Lc 19:47 ; tham chiếu Mt 21:15).
    * Các kẻ có quyền lại muốn giết Chúa một lần nữa sau khi Người kể dụ ngôn những kẻ tá điền độc ác (Mc 12:1-12, Mt 21:33-46, Lc 20:9-20).
    * Các thượng tế âm mưu bắt và giết Chúa Giêsu cách bí mật trước tiệc Vượt qua của người Do-thái (Mc 14:1-2, Mt 26:1-5).

- PÂ thứ bốn :
    * Vào lần thứ nhất lên Đền thờ, Chúa Giêsu đã ám chỉ cách những kẻ có quyền sẽ tiêu diệt “Đền thờ là chính mình Người” (Jo 2:19).
    * Các kẻ có quyền muốn giết Chúa Giêsu không chỉ vì Người phá vỡ luật ngày Sabbath, mà còn vì Người dám gọi Thiên Chúa là Cha của Người (Jo 5:18 ; tc. Jo 7:1,19-25).
    * Người Do-thái định ném đá Chúa Giêsu khi Người nói “có Ta” (Jo 8:58, bản Nova Vulgata : “Ego sum”, cách Thiên Chúa đã dùng trả lời cho Môsê về “tên của Người”, tc. sách Xuất hành 3:14 : “Ego sum qui sum” ; cũng tc. Jo 8:37-40), và khi Người nói : “Cha và Ta là một” (Jo 10:31-39 ; tc. 11:8), mà các kẻ có quyền cho là “sự phạm thượng”.
    * Hội đồng công nghị (sanhedrin) chống đối Chúa Giêsu vì Người làm nhiều “dấu” mà họ sợ rằng có thể gây ra phản ứng nơi quân đội Rôma đang đô hộ ; Caiphas nói rằng một người chết thay vì toàn dân bị tiêu diệt (Jo 11:48-53).
    * Các thượng tế cũng định giết cả Lazarus vì nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu sau khi Chúa cho ông này sống lại (Jo 12:10-11).

3. NHỮNG SỰ VIỆC KHI LỄ VƯỢT QUA ĐẾN

Điều gì đã xảy ra ngay trước cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu ?

- Âm mưu giết Chúa Giêsu :
    * Các PÂ Cộng lãm đều thuật lại các kẻ có quyền trong dân Do-thái (thượng tế, kì mục, và / hoặc kí lục) âm mưu giết Chúa, nhưng còn e ngại phản ứng của dân chúng, nhất là vào dịp cận kề lễ Vượt qua (Mc 14:1-2, Mt 26:1-5, Lc 22:1-2). Marcô và Matthêu cho biết lúc đó là hai ngày trước lễ Vượt qua, trong khi Luca ít chính xác hơn khi nói lễ Vượt qua “đã gần đến”.
    * PÂ Gioan cũng kể tương tự về âm mưu của những kẻ có quyền, nhưng làm nổi lên vai trò của Caiphas, làm thượng tế khi ấy (Jo 11:47-53).

- Chúa Giêsu được một phụ nữ xức thuốc thơm :
    * Cả bốn PÂ đều kể có một phụ nữ xức thuốc thơm cho Chúa Giêsu đang khi ăn, nhưng nhân thân người phụ nữ, thời gian cũng như nơi xảy ra sự việc rất khác nhau.
    * Trong Marcô 14:3-9 và Matthêu 26:6-13, hai ngày trước lễ Vượt qua, tại nhà của Simon tật phong ở Bethania (gần Jerusalem), một phụ nữ vô danh (không hề gọi là “người có tội”) đã xức thuốc thơm đắt tiền lên đầu Chúa Giêsu. Vài người phàn nàn về sự phung phí đó, nói thuốc thơm này có thể bán lấy tiền cho kẻ khó ; nhưng Chúa Giêsu lại khen ngợi người phụ nữ, nói rằng việc đó để chuẩn bị cho việc mai táng Người.
    * Trong Gioan 12:1-8, việc xức thuốc thơm cũng xảy ra ở Bethania, nhưng là vào sáu ngày trước lễ Vượt qua, và ở nhà của Martha, Maria, Lazarô. Người phụ nữ là Maria Bethania (không phải Maria Magdala, cũng không phải người phụ nữ “có tội”), đã xức lên chân Chúa, rồi lau bằng tóc mình. Giuđa Iscariot được kể là kẻ duy nhất phàn nàn về sự phung phí, và Chúa cũng phản ứng cho biết việc đó là để làm dấu cho ngày mai táng Chúa sắp tới.
    * Trong Luca, câu chuyện xức thuốc thơm không thuộc trình thuật Thương khó mà xảy ra sớm hơn nhiều (Lc 7:36-50), khi Chúa Giêsu vẫn còn đang ở Galilê. Một người phụ nữ tội lỗi vô danh đã xức thuốc thơm lên chân Chúa Giêsu khi Người đang ăn tại nhà một người Pharisêô vô danh, và chính ông này đã phàn nàn, không phải về sự phung phí dầu thơm, mà về việc Chúa Giêsu đã để cho người phụ nữ tội lỗi đó đụng đến mình. Đáp lại, Chúa đã nói về tình yêu và sự tha thứ, không phải về cái chết của Người.

- Giuđa lập kế hoạch phản bội Chúa :
    * Trong cả ba PÂ Cộng lãm, Giuđa Iscariot đã thỏa thuận với các thượng tế về việc phản bội Chúa Giêsu (Mc 14:10-11 và các đoạn song song), nhưng chỉ có Matthêu nêu chi tiết về “ba mươi đồng bạc”, còn chỉ Luca đề cập đến việc Satan nhập trong Giuđa (x. Mc 14:10-11, Mt 26:15, tc. 27:3,9, Lc 22:3-6).
    * Phúc âm Gioan cũng đề cập tới việc Satan ảnh hưởng đến Giuđa (Jo 6:70-71, 13:2,27), nhưng không hề nói về việc Giuđa gặp các thượng tế.

4. BỮA TỐI SAU HẾT :

Bữa tối sau hết của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì với các môn đồ của Người ?

- PÂ Cộng lãm :
    * Chúa Giêsu sai vài môn đồ (chỉ riêng Luca cho biết đó là Phêrô và Gioan) vào thành Jerusalem để dọn bữa tối sau hết. Trong cả ba PÂ này, bữa tối đó rõ ràng là tiệc Vượt qua để kỉ niệm việc dân Do-thái ra khỏi Ai-cập (Mc 14:12, Mt 26:17, Lc 22:7-8,15).
    * Cả ba PÂ đều thuật lại việc Chúa lập bí tích Thánh Thể (Mc 14:22-25, Mt 26:26-29, Lc 22:15-20 ; cũng tc. Thư 1Cor 11:23-25).
    * Chỉ trong Luca (và Phaolô), Chúa Giêsu nói minh bạch : “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22:19b ; tc. 1Cor 11:24,25).
    * Chỉ trong Luca cho chứng cứ rõ ràng về truyền thống chúc phúc cho nhiều chén rượu nho trong tiệc Vượt qua (Lc 22:17,20)
    * Luca cũng tường thuật cuộc trò chuyện dài hơn trong Bữa tối sau hết, có cả việc Chúa báo trước Phêrô sẽ chối Thầy (Lc 22:31-34 ; tc. Jo 13:36-38).
    * Trong MarcôMatthêu, việc Chúa báo trước Phêrô chối Thầy xảy ra ngay sau bữa ăn khi các ngài đang trên đường đến Gethsemani (Mc 14:26-31, Mt 26:30-35).

- PÂ Gioan :
    * Bữa tối sau hết của Chúa không phải là tiệc Vượt qua, nhưng đã diễn ra trước lễ Vượt qua (Jo 13:1) ; Chúa chịu chết trong cùng buổi chiều diễn ra việc sát tế các chiên Vượt qua (tc. Jo 19:31-37).
    * Gioan không ghi lại từ ngữ nào việc lập bí tích Thánh Thể trong đoạn 13, nhưng đề cập đến bí tích đó từ sớm hơn (Jo 6:22-59).
    * Sau đó Người bảo các môn đồ : “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng phải làm như Thầy đã làm cho các con” (Jo 13:15).
    * Trong bữa ăn, Chúa báo trước việc Giuđa phản bội (Jo 13:21-30) và việc Phêrô chối Thầy (13:36-38).
    * Chúa Giêsu cũng ban “Diễn từ li biệt” trong bữa ăn (Jo 13:31 – 16:33), và dâng một lời kinh nguyện dài lên Thiên Chúa (17:1-26).

5. HẤP HỐI VÀ BỊ BẮT TRONG VƯỜN

Chúa Giêsu đã bị bắt ở đâu và như thế nào ?

- PÂ Cộng lãm :
    * Sau tiệc Vượt qua, Chúa Giêsu và các môn đồ đi lên “Núi Cây Dầu” (Mc 14:26, Mt 26:30, Lc 22:39).
    * Nơi Chúa cầu nguyện gọi là Gethsemani, nhưng không nói rõ là “vườn”.
    * Luca đã thu lại rất ngắn lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và việc Người thử thách các môn đồ (trong MarcôMatthêu đều có 11 câu, nhưng trong Luca chỉ còn 6 câu).
    * Trong cả ba sách Cộng lãm, Giuđa ra dấu xác định ai là Chúa Giêsu bằng một cái hôn (Mc 14:43-46, Mt 26:47-50), tuy nhiên trong Luca, Chúa Giêsu ngắt ngang hành động đó của Giuđa bằng câu hỏi : “Giuđa, anh định phản bội Con Người bằng một cái hôn ư ?” (Lc 22:48).

- PÂ Gioan :
    * Sau khi Chúa Giêsu kết thúc bài diễn từ và lời cầu nguyện, các ngài đi “sang bên kia thung Kidron” và vào một “khu vườn”, nhưng lại không nói rõ đó là “Gethsemani” (Jo 18:1).
    * Không có cơn hấp hối hay lời cầu nguyện nào nữa của Chúa Giêsu trong khu vườn này, mà chỉ diễn ra cuộc bắt bớ (18:2-12).
    * Chúa Giêsu vẫn điều khiển hoàn cảnh, Người đã khiến bọn lính không dám bắt Người khi hai lần Người bảo : “Là Ta” (bản Nova Vulgata vẫn dùng “Ego sum”, x. lại mục 2. Những chống đối Chúa Giêsu, PÂ thứ bốn ; Jo 18:6,8).
    * Cả bốn PÂ đều nói việc có một môn đồ chém đứt tai một kẻ tôi tớ vị thượng tế, nhưng chỉ trong Gioan mới nói đích danh người chém là Phêrô và người bị chém là Malchus (Jo 18:10).

6. NHỮNG LỜI CÁO GIAN VÀ VU KHỐNG

Tại sao Chúa Giêsu bị lên án tử, ai đã làm như thế ?

- Cuộc thẩm xét tôn giáo : Vị thượng tế Do-thái và Hội đồng công nghị kết tội Chúa Giêsu đã phạm thượng.
    * Marcô 14:61-64 và Matthêu 26:63-66 đã dùng cách tường minh từ ngữ “phạm thượng” (L. : “blasphemia”), trong khi trình thuật của Luca 22:67-71 và Gioan 18:19-23 không dùng đích xác từ ngữ này, nhưng nội dung mang ý nghĩa tương tự.
    * Từ ngữ “blasphemia” trong cổ ngữ Hi-lạp (“βλασφημίας”) có nghĩa là “phỉ báng, nói những điều xấu xa về Thiên Chúa”.
    * Hình phạt trong luật Do-thái cho tội phạm thượng là bị ném đá đến chết (Lêvi 24:10-23).
    * Chúa Giêsu trực tiếp nhìn nhận rằng Người là “đấng Cristô, Con đấng Đáng-Chúc-tụng” (tức là Thiên Chúa) trong Marcô (14:61-64), trong khi câu trả lời của Người được kể lại ở các PÂ khác không hoàn toàn rõ ràng như thế (Mt 26:64, Lc 22:67-68, Jo 19:7 ; tc. Mc 15:39).

- (Những) Cuộc xử án phần đời : Tổng trấn Judea là Pontius Pilatus thấy rằng Chúa Giêsu có tội phiến động, bạo loạn, hoặc là phản nghịch (lại chính quyền đô hộ là đế quốc Rôma).
    * PÂ Luca diễn tả bản chất những lời vu cáo chống lại Chúa Giêsu rất chi tiết (Lc 23:2,5,14).
    * Chúa Giêsu bị tố cáo rằng đã tự xưng và / hoặc để người ta gọi Người là “Vua Do-thái” (Mc 15:2,9,12,18,26,32, và các đoạn song song ; cũng tc. Jo 18:33-37, 19:12-15).
    * Chỉ trong PÂ Luca, Pilatus đã cắt ngang cuộc xử án bằng cách cho điệu Chúa Giêsu đến Herode Antipas, tứ phân hầu (quen dịch là “vua”) xứ Galilê, lúc bấy giờ cũng đến Jerusalem để dự lễ Vượt qua (Lc 23:6-12).
    * Trong MarcôMatthêu, Pilatus khá nhanh chóng đáp ứng đòi hỏi của các kẻ có quyền trong dân Do-thái để kết án Chúa Giêsu (Mc 15:2-15).
    * Trong LucaGioan, Pilatus nhiều lần lặp lại điều ông nhìn nhận Chúa Giêsu vô tội (Lc 23:4,13-15,22, Jo 18:38b, 19:4,6,12 ; tc. Mt 27:24-25).

7. ĐÓNG ĐINH CHÚA VÀO THẬP TỰ GIÁ VÀ CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI

Chúa bị hành quyết thế nào ?

- Lên án tử :
    * Trong các xứ sở bị quân Rôma chiếm đóng, án tử hình chỉ có thể được tuyên khi có sự chuẩn y của chính quyền đô hộ Rôma tại địa phương (tc. Jo 18:31 : “chúng tôi không có quyền lên án xử tử ai”).
    * MarcôMatthêu viết rõ rằng Chúa Giêsu bị giao cho lính Rôma đem đi đóng đinh, nhưng LucaGioan (dùng các đại danh từ không rõ ràng) làm cho việc kết án đó đã được Pilatus giao lại cho thẩm quyền Do-thái để họ đem đi đóng đinh (Lc 23:25, Jo 19:16).

- Đánh đòn :
    * Trước khi chịu đóng đinh, kẻ tử tội thường bị đòn vọt, khảo đả, sỉ nhục, hành hạ nhiều cách.
    * Tội nhân có thể chết vì các cuộc khảo đả này, nên luật Do-thái giới hạn số roi đòn là ba mươi chín roi (tc. thư 2 Cor 11:24).
    * Vì Chúa Giêsu bị kết án do đã tuyên bố là “Vua dân Do-thái”, nên bọn lính lăng nhục Người với biểu tượng vương quyền một cách nhạo báng, như khoác cho áo choàng đỏ (hoặc tím), đội vương miện (bằng gai), và cây sậy cầm trên tay (để thay cho phủ việt).

- Đường đến Golgotha :
    * Tội nhân thường bị buộc phải vác lấy thập tự giá của chính mình đến nơi chịu đóng đinh (như Chúa Giêsu đã làm trong trình thuật của Gioan 19:17) ; nhưng trong PÂ Cộng lãm, Simon xứ Cyrene đã bị ép vác đỡ thập tự giá cho Người (Mc 15:21, Mt 27:32, Lc 23:26).
    * Chỉ có PÂ Luca thuật việc Chúa Giêsu nói với các phụ nữ trên đường thương khó (Lc 23:27-31) ; tuy nhiên cả bốn bản PÂ đều không đủ các nội dung của mười bốn “Chặng đường Thập tự giá” sau này trở thành một thực hành đạo đức phổ thông của người Cristô.
    * Golgotha, L. là locus Calvariae, nghĩa là “chỗ cái sọ” (Mc 15:22 và các đoạn song song) có lẽ là một mỏ đá bỏ hoang ở bên ngoài tường thành Jerusalem ; nhưng thành phố được nới rộng, những bức tường mới đã được xây từ cạnh Bắc đến cạnh Tây, sau cái chết của Chúa Giêsu không bao lâu.
   * Vì thế, nơi đóng đinh và nơi táng xác Chúa Giêsu từ cuối thế kỉ I đã trở thành ở bên trong thành phố, tại chỗ mà vào thế kỉ IV đã xây Nhà thờ Mồ Thánh. Trái lại, có người cho rằng nơi đóng đinh là ở chỗ được gọi là “Khu Vườn Mộ” (hơi chếch lên Cổng Damascus về phía Bắc).

- Cách thức đóng đinh :
    * Trái với cách nói “thập tự giá” (nghĩa là giá đỡ có hình chữ thập, tức là chữ Nho ), giá đỡ tử tội thường có hình chữ T, sau khi được chôn cây dọc cắm thẳng xuống đất, thì thanh ngang sẽ ở trên đỉnh.
   * Nạn nhân có thể bị trói và / hoặc đóng đinh vào thanh ngang của giá đỡ, khi giá được chôn thì người ở tư thế thẳng góc với mặt đất. Chỉ có PÂ Gioan nói rõ là “các đinh đóng” và “các dấu đinh” (trên tay Chúa ; x. Jo 20:25 ; tc. thư Col 2:14), trong khi có thể Chúa bị trói vào giá đỡ, căn cứ trên PÂ Cộng lãm (tc. Tông đồ công vụ 5:30, 10:39, 13:29, trong đó dùng từ ngữ “treo trên một cây gỗ” ; cũng tc. Đệ nhị luật 21:22, thư Gal 3:13).
    * Kẻ bị đóng đinh có lính canh để ngăn người nhà hay bạn bè của tử tội cứu xuống trước khi chết.
    * Điều cáo buộc thường được viết và gắn phía trên đầu kẻ bị kết án như một cảnh cáo cho những ai xem thấy : INRI = Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum, tiếng L., có nghĩa là : “Giêsu (người) Nazareth, Vua dân Do-thái” (Jo 19:19-22 ; tc. Mc 15:26).
   * Chỉ Gioan cho dạng đầy đủ của các lời trên đây, và nói lời đó được viết bằng tiếng Hipri, Latin, và Hi-lạp. Trong PÂ Cộng lãm thì ngắn hơn : Mt 27:37 : “Đây là Giêsu Vua Do-thái”, Lc 23:38 : “Đây là Vua Do-thái”, Mc 15:26 còn ngắn hơn nữa : “Vua Do-thái”.

- Nguyên do chết :
    * Một số người có thể chết khá nhanh vì mất máu, nhưng cũng có người có thể vẫn còn sống qua nhiều ngày trước khi chết hẳn vừa vì mất nước vừa vì ngạt thở.
    * Để kéo dài cơn hấp hối của nạn nhân, người ta sẽ cột hay đóng đinh chân nạn nhân vào một miếng đỡ, vì thế mỗi khi bị ngạt quá, theo phản xạ, nạn nhân có thể rướn người lên để thở.
    * Để nạn nhân chết nhanh chóng, người ta có thể đánh gẫy chân nạn nhân nên xác trĩu xuống, nạn nhân mau chóng chết vì ngạt (tc. Jo 19:31-36).

- “Bảy lời sau hết trên thập tự giá của Chúa Cristô” :
    * Cử hành đạo đức Thứ Sáu Tuần Thánh theo thói quen thường kể ra bảy “lời” (tiếng Hi-lạp λόγος nghĩa là “lời, câu, từ ngữ”) mà Chúa Giêsu đã kêu lên khi bị treo trên thập tự giá ; tuy nhiên không bản PÂ nào có đủ bảy lời đó, mà thường chỉ kể một, hai, hoặc nhiều nhất là ba lời như sau :
        1. Chúa cầu xin cho những kẻ đóng đinh Người : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”, Lc 23:34.
        2. Nói với Mẹ Người : “Thưa Bà, này là con Bà”, và nói với người môn đồ được yêu : “Này là mẹ con”, Jo 19:26,27.
        3. Nói với người trộm lành : “Thật, Ta bảo anh, hôm nay anh sẽ ở với Ta trên Thiên đàng”, Lc 23:43.
        4. Vào giờ thứ chín (trong bản Hi-lạp) : “ἐλωι, ἐλωι, λαμα σαβαχθανι” ([Eloi, Eloi, lama sabakhthani] Mc 15:34 = Mt 27:46 ; nghĩa là “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi ?”).
        5. Để làm trọn lời Kinh thánh : “Ta khát” (Jo 19:28).
        6. Sau khi nếm một chút dấm : “Đã hoàn tất” (Jo 19:30).
        7. Ngay trước lúc tắt nghỉ : “Lạy Cha, con phó thần khí con trong tay Cha” (Lc 23:46).

- Các chứng nhân trong cuộc Thương khó :
    * Trong PÂ Cộng lãm, nhiều phụ nữ đã theo Người từ Galilê “nhìn từ xa” (Mc 15:40, Mt 27:55 ; tc. Lc 23:49).
    * Marcô kể tên ba phụ nữ (Maria Magdala, Maria mẹ Giacôbê và Jôsê, Salômê) ; Matthêu kể hơi khác (Maria Magdala, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse [thực ra phải được coi là đồng nhất với Jôsê], và mẹ của các con ông Zêbêđê) ; tuy nhiên tất cả đều không được nêu tên trong Luca (cho tới câu Lc 24:10).
    * Một viên bách quản Rôma chứng kiến cảnh tượng đã lên tiếng : “Thật người này là con Thiên Chúa” (Mc 15:39, Mt 27:54), hoặc “... vô tội” (Lc 23:47).
    * Trong Gioan 19:25-26 có bốn phụ nữ (mẹ Người, chị em với mẹ Người, Maria vợ của Clopas, và Maria Magdala – hay là 3, nếu như người thứ 2 cũng chính là người thứ 3 ?), cùng với “người môn đồ được Chúa Giêsu yêu” (không nói đến tên, nhưng đã được gọi là “con” ; bản Hi-lạp υἱός = filius, L.) “đang đứng ở bên thập tự giá” (nghĩa là rất gần).

8.VIỆC AN TÁNG

Ai đã an táng Chúa Giêsu, khi nào, như thế nào, ở đâu ?

- Ai an táng Chúa ?
    * Một ông Giuse nào đó, từ một thị trấn xứ Judea tên là Arimathia (nhưng chính xác là ở đâu thì không rõ). Ông được kể là “một nghị viên có thế giá, ông cũng hằng trông đợi nước Thiên Chúa” (Mc 15:43), một “người giầu có” và “cũng là một môn đồ của Chúa Giêsu” (Mt 27:57). Trong khi đó thì Luca kể mọi chi tiết trên : “làm nghị viên, một người từ tâm và công chính, không can dự vào ý định và hành vi của họ” (Lc 23:50), còn trong Gioan là “một môn đồ của Chúa Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái” (Jo 19:38).
    * Chỉ Gioan nói đến Nicodemus, người trước đã từng đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm, cũng đến giúp việc an táng Chúa (Jo 19:39 ; tc. 3:1, 7:50).

- Khi nào ?
    * Sau khi Giuse đã xin được phép của Pontius Pilatus để tháo xác Chúa Giêsu xuống (Mc 15:43 và các đoạn song song), sau khi Pilatus có thể đoan chắc là Chúa Giêsu đã chết, căn cứ vào lời chứng của viên bách quản (Mc 15:44-45) và / hoặc căn cứ việc đâm giáo vào cạnh sườn Chúa Giêsu (Jo 19:31-37).
    * Vào chiều ngày Thứ Sáu ngay trước khi mặt trời lặn [tức là lúc đó sẽ sang ngày mới : ngày Sabbath, Thứ Bảy] ; vì thế việc an táng đã được làm cách vội vã (Mc 15:42, Lc 23:54, Jo 19:42).

- Như thế nào ?
    * Bằng cách bọc xác Chúa Giêsu trong một tấm vải gai (L. : linteus, Jo 19:50, và các đoạn song song), rồi để vào một ngôi mộ đục ngay trong đá (Mc 15:46, Lc 23:53), sau đó họ vần một tảng đá lớn để đóng cửa mộ (Mc 15:46 và các đoạn song song).
    * Trong Gioan 19:40, các ông còn bọc xác Chúa trong một lượt thuốc (gồm một dược và lô hội độ một trăm cân), theo thói tục liệm táng của người Do-thái ; nhưng trong PÂ Cộng lãm, các ông đã không quấn thuốc như vậy (rõ ràng là vì không còn kịp thời gian trước khi mặt trời lặn), mà đúng hơn, các phụ nữ chuẩn bị các dược liệu đó sau khi về nhà (Lc 23:56), và định sẽ đem tẩm xác Chúa vào sau ngày Sabbath (Mc 16:1).

- Ở đâu ?
    * PÂ Cộng lãm không cho biết vị trí ngôi mộ, chỉ nói đó là huyệt được đục trong đá (Mc 15:46 và các đoạn song song).
    * Luca 23:53 và Gioan 19:41 thêm chi tiết rằng huyệt đó chưa chôn cất ai, còn Matthêu 27:60 cho biết chi tiết huyệt đó là huyệt mộ mới làm của chính Giuse Arimathia.
    * Chỉ có Gioan 19:41-42 nói ngôi mộ ở trong một “khu vườn” gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh.
    * Chỉ có Matthêu 27:62-66 cho biết một đội lính được cắt canh giữ mộ Chúa Giêsu, kẻo môn đồ Người đến lấy trộm xác (tc. 28:11-15).

       BÙI NGỌC HIỂN

Không có nhận xét nào: