CÂU ĐỐI CÔNG GIÁO (2)
CÂU ĐỐI CHỮ NHO
(CỦA ANH EM CÔNG GIÁO TRUNG HOA)
BÙI
NGỌC HIỂN
Nguyên ban đầu,
bài viết này muốn giới thiệu các câu đối Công giáo viết bằng Chữ Nho, bất kể
tác giả là người Việt hay người Hoa, vì ở Việt Nam trước kia có lẽ không hiếm
các câu đối như vậy. Ở tư gia thì chắc là thường chỉ gặp trên bàn thờ, nhưng
trong thánh đường thì có thể thấy từ ngoài vào trong. Ngoài nhà thờ thì ở mặt
tiền, như câu đối ở nhà thờ Lai Thành đã dẫn trong bài 1, hoặc một số nhà thờ
khác, nhưng hẳn là không nhiều. Dù vậy, trong những nhà thờ có câu đối Chữ Nho,
có nhà thờ không chỉ có một cặp câu đối, mà có đến bảy cặp nề ngoài mặt tiền :
nhà thờ Thánh Mẫu Mai Khôi An Vân (Hương An, Hương Trà, Huế). Câu đối Chữ Nho
cũng còn gặp thấy cả trong các sách đạo... (các câu đối này và các câu đối ở
nhà thờ An Vân sẽ trình bày bên dưới).
Sau những lần trùng tu, thậm chí xây mới, phần lớn
các câu đối ở các nhà thờ Việt Nam không còn tồn tại (1). Có những nơi có ý thức giữ gìn, nhưng vì những người phụ trách thi
công có lẽ không biết Chữ Nho, nên những chữ gọi là được “phục dựng” thì không
thể nhận ra đó là những chữ gì. Một trong số rất ít ỏi nhà thờ Công giáo được
trùng tu, mà những vị phụ trách có tinh thần bảo tồn, để bộ mặt nhà thờ tuy được
làm mới, nhưng vẫn giữ nguyên dạng ban đầu, cho đến từng nét của các Chữ Nho từng
có, đó là nhà thờ Thánh Mẫu Mai Khôi An Vân đã đề cập trên kia.
Những câu đối
ở tư gia cũng có cùng tình trạng khi những thế hệ cũ qua đi, thế hệ sau muốn
xây dựng mới ngôi nhà, thì những gì là “cổ” nhưng có lẽ không “kính” đều ra đi
mãi mãi. Sách vở cũng không khá hơn. Người đọc được sách và bản thân sách cũng
sẽ ngày càng “nan tái đắc”.
Vì thế, bài
viết này xin giới thiệu chủ yếu các câu đối của anh em Công giáo Trung Hoa do
còn giữ lại được nhiều. Tác giả của hầu hết các câu đối dẫn ra trong bài viết
dưới đây đều khuyết danh (trừ vài trường hợp rất ít, được ghi cụ thể trong bài).
Các Chữ Nho trong bài viết đều dùng chữ rậm nét (phồn thể) mà không dùng
chữ đơn (giản thể ; sĩ tử Việt Nam ngày xưa đi thi bị cấm dùng chữ đơn
làm văn, bài nào dùng sẽ bị đánh là bạch tự – chữ trắng, và tác giả của
nó đương nhiên bị rớt). Âm đọc ghi kèm các chữ đó là âm Nho (nay quen gọi là âm
Hán – Việt), và không ghi chú thêm âm Tàu để tránh những nặng nề không cần thiết.
Các trích dẫn từ Kinh Thánh bằng Chữ Nho đều theo bản dịch Công giáo Tư Cao
(có thể xem tại http://www.vatican.va/chinese/bibbia.htm) ; việc dịch các trích
dẫn Kinh Thánh trong trường hợp như vậy sẽ theo bản Chữ Nho (có tham chiếu các
bản văn khác) để dễ đối chiếu với việc dùng chữ trong các câu đối.
Để bớt nặng nề,
hầu hết các Chữ Nho trong bài viết đều được đưa xuống phần chú thích bên
dưới.
Cũng lưu ý rằng
cùng một mặt Chữ Nho, nhưng thanh Bằng – Trắc theo giọng ta và giọng Tàu
có thể không như nhau. Lại có những Chữ Nho mà ngay giọng ta cũng có nhiều hơn
một cách đọc, lại thuộc hai thanh khác nhau. Thí dụ chữ 間 , nếu đọc là gian
(B) thì có nghĩa là (một) khoảng, (một) đỗi..., thường dùng với chức năng danh
từ ; nếu đọc là gián (T) thì có nghĩa là cách (nhau), thường dùng
với chức năng động từ hoặc trạng từ. Hay chữ 王 , đọc vương (B) là người đứng đầu (một
nước), có chức năng danh từ ; đọc vượng (T) có nghĩa là cai trị,
động từ. Chữ 衣 đọc y
(B) là cái áo, danh từ ; đọc ý (T) là mặc áo, động từ... Bài viết
chỉ dẫn ra những câu đối của anh em Công giáo Trung Hoa khi các câu đối đó đọc
giọng Chữ Nho mà không vi phạm luật B – T, ít nhất cũng ở hai chữ
cuối mỗi vế, vì có những câu đọc theo giọng Tàu thì bảo đảm luật B – T,
nhưng khi đọc theo giọng ta thì có khi chữ cuối câu (và cuối các phân đoạn) lại
cùng B cả hoặc cùng T cả. Thêm vào đó, dĩ nhiên không phải bất cứ
người Trung Hoa nào cũng biết làm câu đối. Nếu không học và tập làm, thì chỉ
"sáng tác" được những cặp câu có số chữ bằng nhau rồi tự gán cho đó
là những câu đối. Những câu như thế sẽ không dẫn vào bài viết. Dù vậy, số các
câu đối trình bày trong bài viết này khá nhiều, nên việc giải thích thêm (như
điển tích, xuất xứ... của chữ dùng) chỉ có thể làm trong một ít trường hợp,
kính mong quý độc giả gần xa lượng thứ.
Một lưu ý nhỏ
nữa về danh xưng. Da-tô là âm Chữ Nho của hai chữ 耶 蘇 , đọc theo giọng Tàu là yēsū,
còn Cơ-đốc là đọc tắt của 基 利 斯 督 , jīlìsīdū [cơ-lị-tư-đốc
; phiên âm cũ là 契 利 斯 督
qìlìsīdū – khế-lị-tư-đốc, tương tự giới Công giáo Việt Nam đọc tắt
kiểu phiên âm cũ k(i)-ri-x(i)-tô thành ki-tô (1')].
Những chữ này là những chữ phiên âm (theo giọng Tàu) của Jesus và Christus.
Các chữ Da-tô và Cơ-đốc được cả anh em Công giáo cũng như Tin
Lành người Trung Hoa sử dụng, vì là chữ phiên âm các tên riêng (dù có rất nhiều
trường hợp không thống nhất được như vậy). Tuy nhiên Công giáo ở Trung Hoa có
danh xưng phổ thông là Thiên Chúa giáo (danh xưng Công giáo cũng
được dùng, thí dụ tên một tờ báo là Kung Kao Po [Công giáo báo], nhưng
danh xưng này không phổ thông) ; còn anh em Tin Lành Trung Hoa dùng danh xưng
là Cơ-đốc giáo. Nhà thờ Công giáo Trung Hoa dùng danh xưng là Thiên
Chúa đường (xin nói thêm, trước kia tại Giáo xứ Hải Xuân trong quá
trình chờ xác định tên gọi chính thức cho giáo xứ, cũng nề ba chữ Thiên Chúa
đường này, bằng Chữ Quốc ngữ, ngay cổng vào ; cũng thế, trên nhà thờ Cha
Tam cũng có ba chữ này nhưng bằng Chữ Nho), hoặc chỉ dùng chữ “đường”
sau tên riêng của (vị thánh bổn mạng hoặc địa phương có) nhà thờ đó. Còn nhà thờ
Tin Lành thì dùng danh xưng là Cơ-đốc giáo đường.
Cũng liên
quan tới “chữ nghĩa”, các chữ 主 trong bài viết này phần lớn trường hợp được ghi cách đọc
là “Chúa” ; chỉ khi phiên âm các chữ 主 教 (không có 天 thiên ở trước)
mới phiên là “chủ giáo” [= giám mục ;
chớ lẫn với kiểu nói giáo chủ là một
danh từ hư tạo, Công giáo ở cả Trung Hoa lẫn ở Việt Nam đều không hề dùng danh
từ này] (2).
Nay xin được
đi vào chi tiết các câu đối Chữ Nho. Đầu tiên là một đôi câu đối trong một quyển
sách đạo. Năm 1897, đức cha Giu-se Hiến (tên Việt Nam, nguyên chính tên
của ngài là José Terrés, O.P., 1843 – 1906, người Tây-ban-nha, làm Giám
quản Tông tòa địa phận Đông Đàng Ngoài, Tonkino Orientale [sau này là
các địa phận Hải Phòng và Bắc Ninh], từ năm 1883 đến khi qua đời tại đây năm
1906) cho in tại Nhà Chung Liễu Dinh một bộ sách bằng Chữ Nôm gồm hai quyển,
mang tên Sách Truyện Các Thánh Toát Yếu, trong bộ sách này, quyển 2, Ngày
Lễ Sinh Nhật Đức Chúa Je-su truyện, trang 157a, có đôi câu :
1 Thượng
vinh ư Thiên Chúa ;
Hạ hòa ư
thiện nhân (3).
Đôi câu này,
trước thấy có treo ở nhiều gia đình Công giáo, chính là dịch gọn câu các thiên
thần hát mừng tại Bê-lem khi Chúa sinh ra đời : Gloria in excelsis Deo /
et in terram pax hominibus bonae voluntatis (Lc ii,14) (câu L. trên
là theo bản Vulgata cũ, bản mới – Nova Vugata – sửa lại đôi chút như sau : Gloria
in altissimis Deo, et super terram pax in hominibus bonae voluntatis, nghĩa
cũng thế : Vinh quang Đức Chúa nơi cao thẳm, và an hòa cho những kẻ lòng lành).
Câu Lc ii,14 có thấy anh em Trung Hoa dịch là :
2 Thiên
Chúa thụ hưởng vinh phúc vu thiên ;
Lương nhân
thụ hưởng thái bình vu địa (4).
Tiếp theo là
những câu đối Chữ Nho trong các nhà thờ tại Việt Nam.
Ở đây xin được
nói lại đôi chút về đôi câu đối kính Thánh cả Giuse ở nhà thờ Giáo họ Lai
Thành.
Nguyên văn Chữ Nho :
千 秋 記 迹 金 臺 淨 配 女 王 超 百 聖
萬 古 流 芳 石 谷 名 稱 主 父 冠 羣 臣
Theo
cách viết Chữ Nho (và cả Chữ Nôm) trước kia, không dùng đến các dấu chấm câu
theo kiểu Tây phương, nên muốn đọc hiểu, cần phải ngắt câu cho đúng. Luật Bằng
– Trắc trong văn biền ngẫu chính là giúp cho việc ngắt câu được chính xác.
Cách ngắt câu duy nhất đúng cho đôi câu này như sau :
Thiên thu kí
tích kim đài /
B T
B /
tịnh phối
Nữ Vương siêu bách thánh ;
T B T T
Vạn cổ lưu
phương thạch cốc /
T B T /
danh xưng
Chúa Phụ quán quần thần.
B T
B B
Nghĩa là (dịch thể) :
Ngàn thu ghi
dấu chốn đài vàng /
B T
B B /
bạn vẹn sạch
Nữ Vương (,) vượt trên các thánh ;
T B B
T
Muôn thuở để
thơm nơi hang đá /
T B
T T /
danh thật
là Bõ Chúa (,) đầu hết quần thần.
B
T T B
Lối làm văn
ngày xưa, khi đề vịnh một nhân vật, một thắng tích..., người ta không bao giờ
hài ra nhân danh, địa danh... liên quan, nên nếu dịch cho thật rõ nghĩa, thì
đôi câu trên là :
Thánh Giuse
là đấng đã ghi dấu chốn đài vàng ngàn thu, ngài là bạn vẹn sạch đức Nữ vương,
ngài vượt hẳn trên trăm (trăm / ngàn / muôn → nhiều khôn xiết kể) vị thánh ;
Ngài lưu lại
thơm tho muôn đời nơi hang đá, ngài xứng danh là Bõ (nuôi) của Đức Chúa, (nên)
ngài trổi vượt trên hết cả triều thần (trên trời cũng như dưới đất).
Kim đài
: "đài" : Khang Hi tự điển (dẫn lại các tự điển cổ hơn)
: "Thuyết
Văn" : quan tứ phương nhi cao giả. "Thích Danh" : đài,
trì dã ; trúc thổ kiên cao, năng tự thắng trì dã (5). "Nhĩ Nhã, Thích Danh" đồ (= lầu cao để
canh gác) vị chi đài ; chú : tích thổ tứ phương dã. Như vậy,
"đài" có nghĩa là một "nơi được dựng lên cao (chẳng hạn đắp
bằng đất) vượt hơn chung quanh, dùng vào một mục đích nào đó, như xem xét bốn
bên..." Ở đây, "kim đài" là cách diễn tả trang trọng để
nói đến việc cử hành lễ hôn phối trước "toà / ngai" Thiên Chúa (6).
Tịnh phối
: Năm Khang Hi thứ 14 (năm 1715), nhà xuất bản Toàn Năng đường tại Quảng Châu,
Trung Hoa, cho in lại quyển kinh Công giáo tên là (Thiên Chúa) Thánh giáo nhật
khoá (7), trong kinh thánh Giu-se : xiàng shèng ruòsè
sòng (8) [Hướng thánh Giu-se tụng] đã từng dùng
hai chữ tịnh phối này (9). Theo nghĩa chữ, thì tịnh
/ tĩnh (10) có nghĩa là "sạch sẽ", mà phối
(11) có nghĩa là "ghép, sánh" ; trong "hôn
phối" thì từ kép này có nghĩa là "sánh đôi nên vợ chồng, cưới vợ,
lấy chồng". Do đó, "tịnh phối" nghĩa là "bạn vẹn sạch,
bạn thanh sạch", từng được dùng trong các kinh nguyện tiếng Việt vốn có từ
lâu (trước khi có nhà thờ LT ; xin thử đọc thêm các kinh khác như : Chúng
con trông cậy Rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời...). Kinh Hướng thánh Giu-se tụng
kể trên hiện nay được đọc ngay sau Kinh cầu thánh Giu-se Chữ Nho của anh
em Công giáo Trung Hoa. Trong Kinh cầu này cũng có câu : Thiên Chúa Thánh Mẫu chi tịnh phối (12), bản kinh tiếng
Việt tương ứng là : Thánh Giuse là bạn Đức Mẹ Chúa Trời, không có thanh
sạch (= tịnh), vì hai chữ thanh sạch này sẽ xuất hiện ở câu
liền sau : Thánh Giuse là Đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh.
Chữ "thần"
(13) nghĩa là "tôi", là tiếng thuở trước các quan
cũng như chúng dân tự xưng trước nhà vua. "Vua" trong câu đối này chỉ
có một, đó là Đức Chúa, còn các thánh cũng như hết thảy mọi loài thụ tạo đều chỉ
là "bầy tôi = quần thần" mà thôi. Nhưng do lòng yêu thương của
Đức Chúa, loài người được Chúa nhận làm "nghĩa tử" để có thể kêu Đức
Chúa bằng Abba = Ba ơi (xem Thư Rô-ma viii, 15), nên mới tự
xưng được là "con". Đó cũng là lí do tại sao trước kia các đấng các bậc
dùng "tôi / chúng tôi" để cho mọi người xưng với Chúa, mà không dùng
"con / chúng con". Ngoài ra,
"thần" trong vế này còn dùng theo lối chơi chữ là "đối chữ",
các cụ gọi là "làm màu" (14) với "thần"
(15) là "thần linh, thần thánh" để đối với "thánh"
của vế trên, như trong đôi câu :
Thánh
tổ bảo Thánh tông ra mở nước, đối với
Thần
hồn nát thần tính chạy về nhà.
Tại nhà thờ
Thánh Mẫu Mai Khôi An Vân (Hương An, Hương Trà, Huế), ngoài mặt tiền có bảy cặp
câu đối được sắp xếp như sau :
Đôi câu hai
bên tượng Đức Mẹ ở tầng trên cùng mặt tiền nhà thờ :
3 Thế
gian vô nhị nữ ;
Cức lí hữu
đơn hoa (16).
Nghĩa là :
Cõi đời
không người nữ thứ hai ;
Trong gai
có riêng một bông hoa.
Cức lí hữu
đơn hoa : nhắc lại câu thơ trong sách Nhã Ca : Ngã đích ái khanh tại thiếu nữ trung, hữu như kinh cức trung
đích nhất đoá bách hợp hoa (17) = Bạn
yêu của tôi ở giữa các thiếu nữ cũng như một đoá hoa bách hợp giữa gai góc], Cant
ii, 2.
Ở tầng thứ
hai đôi câu đối chính giữa :
4 Địa
đường cửu vị sơ nguyên bế ;
Thiên lộ
tân bằng tái tổ thông (18).
Địa đường
xưa vì (kẻ) đầu hết mà đóng lại ;
Đường về
trời mới nhờ tổ thứ hai mà được suốt thông.
Sơ có
nghĩa là ban đầu, lúc đầu hết ; nguyên là gốc, cội ; sơ nguyên là
có ý chỉ ông tổ A-đam của loài người. Tái là lần nữa,
lần thứ hai ; tái tổ : người đứng đầu mới của một dòng tộc, ở đây có ý chỉ về Chúa Giê-su là A-đam mới, xem Rm v,
12-21.
Đôi câu này vốn
là đôi câu do vua Khang Hi nhà Thanh đề ở nhà thờ Thánh Mai Khôi tại Đẩu Lục
(hơi khác đôi chút), Trung Hoa, sẽ đề cập bên dưới.
Đôi câu bên
trái :
5 Trinh
biểu dực vu thành ngộ hậu ;
Thục tường
thông tự hữu sinh tiền (19).
Sau khi được
tỏ cho biết thì vẻ trinh khiết mới nên ;
Trước lúc
sinh ra thì đã được thông cho có sự tốt lành.
Đôi câu này
hàm nghĩa :
Chỉ khi
thánh Giu-se được thiên thần báo mộng, thì từ sau đấy, nhờ có thánh Giu-se che
chở, sự trinh khiết của Mẹ Maria mới được trọn vẹn ;
Trước khi
Mẹ Maria sinh ra thì Thiên Chúa đã thông cho mọi sự tốt lành.
Đôi câu bên
phải :
6 Hải
bất dương ba phi khổ hải ;
Tinh năng
sinh nhật tối minh tinh (20).
Biển không
nổi sóng không phải biển khổ ;
Ngôi sao
sinh được ra mặt trời là sao sáng nhất.
Câu này chơi
chữ theo lối điệp từ : chữ đầu và chữ chót vế thứ nhất cùng là hải, vế
thứ hai là tinh ; lại cũng theo lối khoán thủ : hai chữ đầu (và cuối) mỗi
vế hợp thành hải tinh = sao biển, được ví với Đức Mẹ (L. Stella maris).
Mặt trời : chỉ về Chúa Giê-su là Con lòng Đức Mẹ, là Mặt trời công chính
(L. : Sol justitiae). Ngoài ra, trong Chữ Nho, hai chữ sinh (= đẻ)
và nhật (= mặt trời) ghép lại thành chữ tinh (= sao).
Tầng dưới
cùng, cùng mặt tường với hai tầng trên, xây kiểu tam quan, với hai đôi câu đối
bố trí như sau :
Đôi câu hai
bên cửa giữa :
7 Thu
nguyệt dương minh /
nữ đức
quang đằng vu sơ nhật ;
Xuân phong
cộng tại /
tổ
khiên khiết tự vu triêu tinh (21).
Trăng thu
sáng tỏ,
nhân đức
của người phụ nữ toả rạng hơn mặt trời mới mọc ;
Gió xuân ở
cùng với
mà được
trong sạch tội tổ tiên như sao mai.
Xuân phong : gió ấm áp ngày xuân.
Sách Hoài Nam Tử, Nguyên Đạo, viết : Thị cố xuân phong chí tắc
cam vũ giáng, sinh dục vạn vật (22), nghĩa là : Như vậy
khi có gió xuân đến thì mưa ngọt xuống, làm muôn vật sinh sôi nảy nở. Văn
Tuyển, Lục Cơ, bài 20 trong 50 bài Diễn Liên Châu : Xuân
phong triêu hú, tiêu ngải mông kì ôn (23), nghĩa là : Gió
xuân buổi mai ấm áp, nhẹ nhàng thổi hơi ấm cho khắp cả, ý so
sánh với ân huệ đức trạch. Trong cổ văn, xuân phong được dùng chỉ ơn
nuôi dưỡng dồi dào, ơn dạy dỗ nhuần thấm. Xuân phong rất chỉnh đối với Thu
nguyệt ở vế trên. Trong văn học cổ, cả bốn chữ Xuân phong thu
nguyệt này thường được dùng để nói về cảnh đẹp phải thời. Ở đây, Xuân
phong dùng chỉ các ân huệ Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ, trong khi Thu nguyệt
để nói về sự rạng ngời của các nhân đức của Đức Mẹ.
Triêu tinh : sao buổi sớm, tức là sao Mai, cũng được dịch
sang Chữ Nho là thần tinh, hoặc hiểu tinh, ngôi sao vẫn còn rạng
rỡ trên bầu trời buổi bình minh khi những sao khác đã lặn hết thảy, vì thế thường
được dùng trong kinh sách để ví với Đức Mẹ (Kinh cầu Đức Bà : Đức Bà
như sao Mai sáng vậy ; bản Chữ Nho : Hiểu minh chi tinh (24), hoàn
toàn cùng nghĩa với bản kinh tiếng Việt [hoặc Chữ Nôm] ; L. : Stella
matutina).
Đôi câu hai bên hai cửa tả
hữu : vế phải ở bên phải cửa bên phải, đối với
vế trái ở bên trái cửa bên trái :
8 Đạo sở cộng do
chính tại
càn khôn sắc bàng bạc ;
Nhân viết
dư tri
cái vu
tạo hóa tổ uyên nguyên (25).
Đường mà mọi
người cùng theo
chính
là thứ [đường] mênh mông ở khoảng càn khôn ;
Người bảo
ta biết
cội rễ
sâu thẳm bao trùm ấy là [Đấng] tạo hoá.
Đôi câu cuối
cùng đắp trên hai cột góc của mặt tường lùi sâu hơn mặt tường tam quan (mặt tường
này không có cửa) :
9 Câu bên phải :
Nhật
nguyệt quang huy tân đống vũ ;
Câu bên trái :
Sơn
xuyên hoàn củng cựu lâu đài (26).
Nghĩa cả hai
câu này :
Mặt trời mặt
trăng chiếu rạng ngôi nhà mới ;
Núi sông
chầu quanh lầu đài cũ.
Đống vũ
: chỉ chung là nhà. Chữ vốn xuất xứ ở kinh Dịch, Hệ Từ hạ : Thượng cổ huyệt cư nhi dã xử, hậu
thế thánh nhân dịch chi dĩ cung thất, thượng đống, hạ vũ, dĩ đãi phong vũ (27) = Đời thượng
cổ ở hang lỗ đồng nội, đời sau thánh nhân dời ở vào nhà, trên nóc dưới mái, để phòng
mưa gió (nguyên cung thất có nghĩa là nhà ở, tổ..., không phân biệt sang
hèn giàu nghèo ; từ đời Tần – Hán về sau mới gọi nơi ở của vua chúa là cung
(thất)]. Bài Lỗ Linh Quang điện phú (28) của Vương
Diên Thọ (29) đời Hán có câu : Thần linh phù kì đống
vũ, lịch thiên tải nhi di kiên (30) = Thần linh nâng đỡ
cho ngôi nhà ấy vững bền trải ngàn năm]. Đống vũ ở đây chỉ ngôi nhà thờ.
Bên trong nhà
thờ có đôi câu đối chạm hai bên cửa Nhà Tạm :
10 Từ
hàng tối hiển vi /
phất phất
quần sinh siêu nịch hải
Kim điện cực
cao đại /
kì
kì chúng tử lạc thiên cung (31).
Thuyền từ
rất nhiệm mầu,
nhẹ đưa
lũ người vượt bể đắm.
Đền vàng
cao lớn hết mức,
cầu cho
đoàn con vui chốn thiên cung.
Từ
nguyên nghĩa là hiền lành, có lòng thương yêu, đặc biệt nói về lòng thương yêu
của cha mẹ đối với con cái. Trong văn cổ, từ dùng thay cho từ mẫu,
như gia từ có nghĩa là mẹ tôi, vì thế dùng ở đây để nói về Đức Mẹ
là rất phù hợp. Lưu ý rằng từ hàng
(= thuyền từ ; và cả nịch hải = bể đắm) nguyên là thuật ngữ Nhà Phật.
Bài thơ Vịnh Phật của Nguyễn Công Trứ có câu : Chiếc thuyền
từ một lá vơi vơi, /
Vớt chìm đắm đưa lên cõi tĩnh.
Đền vàng
: một trong các phẩm tước Hội Thánh dùng ca ngợi Đức Mẹ trong Litania
Lauretana (Kinh cầu Đức Bà) : Đức Bà như đền vàng vậy (bản kinh Chữ
Nho : Hoàng kim chi điện (32) ; L. : Domus aurea).
Trên Cung
Thánh nhà thờ Đại Chủng viện Huế, có đôi câu đối :
11 Hậu ngô chi sinh /
giáng
thế cánh thành ngô thánh lữ ;
Bão ngã dĩ
đức /
tuẫn
thân hoàn tác ngã thần lương (33).
Làm cho mạng
sống con được dồi dào
xuống
thế lại nên Bạn thánh của con ;
Lấy đức
nuôi nấng con
bỏ mình
để làm lương thần cho con.
Đôi câu này dùng lối điệp tự : hai chữ ngô
đối với hai chữ ngã ở cùng một vị trí. Về hai chữ ngô / ngã
này xin xem thêm bên dưới.
Lữ nguyên nghĩa là bè bạn, bạn lứa. Chính Chúa Giê-su đã
nói với các tông đồ trong bữa ăn cuối cùng : Thầy không còn gọi các con là tôi
tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm. Thầy gọi các con là bạn hữu, vì mọi
điều Thầy đã nghe nơi Cha Thầy, thì Thầy đã tỏ cho anh em biết, Jn xv,
15. Bản Kinh Thánh Công giáo Tư Cao dùng chữ
bằng hữu : Ngã xưng nễ môn vi bằng hữu (34). Ở đây, chữ lữ này vì đồng âm với chữ lữ
nghĩa là khách, khách trọ, xa nhà, xa quê, làm liên tưởng đến câu chuyện hai
người môn đồ trên đường đi Emmaus (Lc xxiv, 13-35). Cũng làm liên tưởng
đến bài thơ Footprints in the sand [Những dấu chân trên cát] của Mary
Stevenson (được tác giả viết vào năm 1936 khi mới được 14 tuổi).
Tại Việt Nam
còn có các nhà thờ Công giáo dành cho anh em người Hoa ở Việt Nam, một trong số
đó là nhà thờ Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, còn gọi là nhà thờ Cha Tam. Trong nhà
thờ, trên gian cung thánh, có đôi câu sau :
12 Ảo
thế phù vinh /
bất túc
mãn nhân nguyện ;
Thiên
hương vĩnh phúc /
phương
năng sung thiện tâm (35).
Phù vinh đời
ảo
chẳng đủ
làm vẹn mong muốn của con người ;
Phúc mãi
mãi trên quê trời
cần phải
đầy đủ lòng lành.
Hiện nay,
không còn được bao nhiêu nhà thờ tại Việt Nam có câu đối Chữ Nho nữa, mà các tài
liệu về các câu đối như vậy rất ít hoặc không hề được phổ biến. Do đó phần dưới
đây xin được trình bày các câu đối Chữ Nho của anh em Công giáo tại Trung Hoa.
Với người
Trung Hoa, không chỉ riêng giới Công giáo, có lẽ rất nhiều người biết đôi câu đối
sau :
13 Vô
thủy vô chung /
tiên
tác hình thanh chân Chúa tể ;
Tuyên nhân
tuyên nghĩa /
duật
chiêu chửng tế đại quyền hành (36).
Không bắt
đầu, không sau hết,
thật là
vì Chúa tể trước đã dựng nên hình tiếng ;
Bày tỏ
lòng nhân nghĩa,
quyền
hành lớn lao là để làm sáng ơn cứu vớt.
Chính là vì
tác giả đôi câu này là hoàng đế Khang Hi (1662-1722), đề tặng nhà thờ Công giáo
trong cửa Tuyên Vũ dịp nhà thờ khánh thành năm Khang Hi 50 (1711). Nhà thờ này
nguyên được cha Lị Mã-đậu (37), thừa sai người Í đến
truyền giáo tại Trung Hoa, khởi công xây dựng năm Vạn Lịch 33 nhà Minh (1605) với
tên gọi ban đầu là Tuyên Vũ môn lễ bái đường [= nhà dâng lễ ở cửa Tuyên
Vũ] trong thành Bắc Kinh, nay ở đường Tiên Môn Tây, khu Tây Thành, Bắc Kinh,
quen gọi là nhà thờ Nam Đường. Năm Thanh Thuận Trị 7 (1650), nhà vua cho
phép cha Thang Nhược-vọng (38), thừa sai người Đức, mở
rộng quy mô, xây mới một nhà thờ lớn hơn trên nền nhà thờ cũ trong hai năm rưỡi.
Vua Thuận Trị rất quan tâm đến việc xây dựng nhà thờ, thân hành đến xem xét
công việc tất cả 24 lần. Vua tặng 4 chữ Khâm sùng Thiên đạo (39)
[= sùng kính đạo Chúa Trời] bằng vàng, khảm ở mặt tiền tòa lầu dựng phía trước
nhà thờ. Nhà thờ được trùng tu năm Khang Hi 42 (1703). Đồng thời với việc tặng
đôi câu đối, vua còn ban biển ngạch (= tấm biển treo trên rường nhà hoặc
trên mi cửa) cho nhà thờ với bốn chữ Vạn hữu chân nguyên (40)
[= muôn (loài, sự, vật) đều có đầu gốc thật ; cũng dịch được là : nguồn gốc thật
của muôn sự có ; xem Vạn Hữu tại nhà thờ
Thánh Tâm Chúa Giê-su Nam Cảng dưới đây].
Năm Càn Long 40 (1775), nhà thờ bị cháy, chính vua Càn Long xuất một vạn lượng
bạc để sửa chữa phục hồi mặt tiền nhà thờ như cũ. Dịp này, vua tự đề lại biển
ngạch mà vua Khang Hi viết trước kia, nhưng chữ nguyên 元 được đổi ra là 原 thành 萬
有
真
原 .
Vì là chữ vua
cho, nên nhiều nhà thờ Công giáo tại Trung Hoa cũng dùng lại bốn chữ biển ngạch
và đôi câu đối trên, như :
- nhà thờ Đổng
Gia Độ ở Thượng Hải ;
- nhà thờ
trên núi Thái Hàng ;
- nhà thờ
thánh nữ Têrêsa thành Avila (tiếng Hoa phiên âm là thánh nữ Đức-lặc-tán)
tại Trùng Khánh ;
- nhà thờ Đức
Mẹ Bảy sự thương khó (Thất khổ Thánh Mẫu đường) tại Tô Châu ;
- nhà thờ Đức
Mẹ Vô nhiễm thai Thanh Bồ (Vô nguyên tội thủy thai Thánh Mẫu đường, thôn
Chung Liên, trấn Luyện Đường) ;
- nhà thờ
Chúa Giêsu lên trời Thanh Bồ (Da-tô thăng thiên đường) tại trấn Chu Gia
Giác, Thanh Bồ (có cả biển ngạch Vạn hữu chân nguyên) ;
- nhà thờ
thánh Phêrô tại Lũ Đường, Gia Định, Thượng Hải ;
- nhà thờ
thánh Phêrô Đông Thanh (Đông Thanh thánh Bá-đa-lộc đường) tại trấn Trịnh
Lục, Vũ Tiến, Thường Châu ;
- nhà thờ Tô
Úc (Tô Úc Thánh Tam Đường), trấn Tô Úc, huyện Nghi Lan, Giáo phận Đài Bắc
;
- nhà thờ Đức Mẹ
chữa kẻ liệt Mã Công (Mã Công Thánh Mẫu bệnh nhân chi thuyên đường), huyện
Bành Hồ, Đài Nam ;
- nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội Nam
Thiên (Nam Thiên
Cống Thánh Mẫu vô nhiễm nguyên tội đường) ;
- nhà thờ Vạn Đại,
Vụ Xã, Mi Khê (Mi Khê Vụ Xã Vạn Đại Thiên Chúa đường) ;
- nhà thờ Tì Trung
tại Vân Nam, v.v...
Tại nhà thờ Tì Trung, đôi
câu đối Vô thuỷ vô chung ... / Tuyên nhân tuyên nghĩa... vua
Khang Hi làm kể trên được bố trí hai bên tượng Chịu Nạn trên cung thánh ; còn
bên ngoài nhà thờ, trên tháp chuông, có đôi câu sau :
14 Cực nhân cực ái ;
Chí thiện chí khiêm (41).
Tại nhà thờ thôn Trác Đầu (Trác Đầu
thôn Thiên Chúa đường) cũng sử dụng đôi câu này,
nhưng mỗi vế đều được rút gọn một ít thành :
15 Vô thuỷ vô chung chân Chúa tể ;
Tuyên nhân
tuyên nghĩa đại quyền hành (42).
Vua Khang Hi có cảm tình đặc biệt đối với
Công giáo (43), thường đàm đạo với các giáo sĩ Tây phương đến
truyền giáo tại Trung Hoa. Ngoài đôi câu đối và biển ngạch (thủ bút của nhà
vua) trên, Giáo hội Công giáo Trung Hoa còn lưu truyền cặp câu đối khác của nhà
vua tán dương Thiên Chúa như sau :
16 Toàn năng toàn tri toàn mĩ thiện ;
Chí công chí nghĩa chí nhân từ (44).
Đôi câu này kể là khá rõ nghĩa ngay cả đối với
người Công giáo Việt Nam :
Trọn khả
năng, trọn hiểu biết, trọn đẹp đẽ tốt lành ;
Rất công, rất
nghĩa, rất nhân từ.
Nhiều nhà thờ Trung Hoa sử dụng đôi câu này,
như :
- nhà thờ thánh Têrêsa Noãn Noãn (Noãn Noãn thánh nữ Tiểu Đức-lan đường ; lưu ý cách phiên âm chữ Têrêsa ở đây :
thánh Têrêsa Hài đồng Giê-su, khác với thánh Têrêsa Avila được
phiên là Đức-lặc-tán), Cơ Long, Đài Bắc ;
- nhà thờ Thượng Đoạn (Bá Châu Thượng Đoạn
Thiên Chúa đường), Giáo phận Kinh Bắc, v.v...
Nhưng tại nhà thờ Thánh Giu-se Nhiêu Bình,
Thích Đồng, Vân Lâm (Vân Lâm, Thích Đồng, Nhiêu Bình [Thụ Tử Cước], thánh
Nhược-sắt Thiên Chúa đường), đôi câu đối trên hai cột cổng dẫn vào khuôn
viên nhà thờ thêm vào mỗi vế hai chữ thành :
17 Thiên
Chúa toàn năng, toàn tri, toàn mĩ thiện ;
Da-tô
chí công, chí nghĩa, chí nhân từ (45).
Thiên Chúa đầy
quyền năng, hiểu biết, đẹp đẽ tốt lành ;
Đức Giê-su rất
công, rất nghĩa, rất nhân từ.
Còn nhà thờ Đức Mẹ Lộ-đức (Hán Khẩu Lộ-đức
Thánh Mẫu đường), huyện Gia Nghĩa, đôi câu đối trên gian cung thánh như sau
:
18 Thánh
Phụ, Thánh Tử, Thánh Thần /
vô thuỷ vô chung duy nhất Chúa ;
Toàn năng toàn tri toàn thiện /
chí trung chí chính độc thương
thiên (46).
Cha, Con, Thánh Thần
là Chúa duy nhất vô thuỷ vô chung ;
Đầy khả năng, đầy hiểu biết, đầy tốt
lành,
một Đấng (trên) cõi cao xanh rất ngay
rất thẳng.
Đôi câu này trình bày các phẩm tính của Chúa
Ba Ngôi, dùng lối điệp từ, rất khó dịch cho hết ý nghĩa, vì câu chữ trong
nguyên văn súc tích, gọn, nếu không muốn dùng lại chữ của nguyên văn thì không
thể tìm chữ khác tương ứng để dịch cô đọng như nguyên văn được.
Cũng tại nhà thờ này, mặt trước giảng đài có
chạm câu Lời Chúa : Da-tô thuyết : Ngã thị đạo lộ, chân lí, sinh mệnh (47) = Chúa
Giê-su nói : Tôi là đường, sự thật, sự sống (Jn xiv, 6).
Tại nhà thờ Bình Tĩnh, thôn Tinh Anh, làng
Nhân Ái, huyện Nam Đầu, Giáo phận Đài Trung, lại liên kết ý tưởng
của cả hai đôi câu trên thành đôi câu hơi khác :
19 Toàn năng toàn trí chân
Chúa tể ;
Vô thuỷ vô chung đại Thiên tôn (48).
Về bốn chữ Vạn hữu chân nguyên, tại
Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giê-su Nam Cảng (Nam Cảng Da-Tô Thánh Tâm Thiên Chúa
đường), Đài Bắc, hai bên ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su là hai câu :
Ngã
đích Thiên Chúa ;
Ngã
đích Vạn Hữu (49).
Ta
đúng là Thiên Chúa ;
Ta đúng
là Đấng Vạn Hữu.
Như vậy, theo cách dùng của người Trung Hoa, "Đấng vạn hữu" có nghĩa là
"Đấng tạo nên muôn sự cho có", hoặc cũng có thể hiểu là "Đấng có
muôn sự", "Đấng hằng có".
Vua Khang Hi còn sáng tác nhiều bài thơ đề tặng
các nhà thờ Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ, một trong các bài thơ ấy có tựa là Sinh
mệnh chi bảo, nguyên văn :
Thiên thượng bảo : nhật, nguyệt, tinh, thần
;
Địa thượng bảo : ngũ cốc, kim, ngân.
Quốc nhu bảo : chính trực trung thần ;
Gia nhu bảo : hiếu tử, hiền tôn.
Hoàng kim, bạch ngọc phi vi bảo ;
Chỉ hữu sinh mệnh nhất thế can.
Bách tuế tam vạn lục thiên nhật ;
Nhược vô sinh mệnh tối khả lân.
Lai thì hồ đồ, khứ thì vong ;
Không độ nhân gian mộng nhất trường.
Khẩu trung ngật tận bách mĩ vị ;
Thân thượng xuyên thành triều phục y.
Ngũ hồ, tứ hải vi thượng khách ;
Như hà lạc tại đế vương gia ?
Thế gian tối đại vi sinh tử ;
Bạch ngọc hoàng kim dã uổng nhiên.
Đạm phạn thanh chúc sung nhất cơ ;
Cẩm y na trứ kỉ thiên niên ?
Thiên môn cửu vị sơ nhân bế ;
Phúc lộ toàn thị Thần Tử thông.
Ngã nguyện tiếp thụ Thần Thánh Tử ;
Nhi tử danh phận đắc vĩnh sinh !
Thanh Khang Hi thư (50)
Nghĩa là :
Của báu trên trời là mặt trời, mặt trăng
và các ngôi sao ;
Của báu dưới đất là ngũ cốc, vàng, bạc.
Của báu cần cho nước là bầy tôi trung,
ngay thẳng ;
Của báu cần cho nhà là con hiếu cháu hiền.
Vàng đỏ, ngọc trắng không phải là của báu
;
Chỉ có mạng sống là điều can hệ nhất trên
đời.
Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày ;
Nếu không có mạng sống thì thật rất đáng
thương.
Thời chưa đến thì không rõ ràng, mà thời
đã qua thì mất rồi ;
Đời người cũng như khoảng không, chỉ là một
giấc mộng dài.
Miệng ăn hết trăm mùi ngon ngọt ;
Trên mình xỏ ngàn áo mũ chầu.
Làm thượng khách năm hồ bốn biển ;
Vì sao mà rơi vào nhà vua chúa ?
Điều lớn nhất của cõi đời là sống chết ;
Ngọc trắng vàng đỏ cũng uổng thay.
Cơm nhạt cháo trắng làm no một lúc đói ;
Áo gấm mặc được mấy ngàn năm ?
Cửa trời xưa vì người xưa mà đóng lại ;
Con đường phúc do Người Con Thần mà suốt thông
cả.
Ta xin chịu lấy Đấng Con Thần Thánh ;
(Để cho) danh phận con cái được hằng sống
!
Khang Hi nhà Thanh viết
Sở dĩ dẫn lại bài thơ Sinh mệnh chi bảo
này, vì ở nhà thờ Thánh Mai Khôi tại Đẩu Lục (Đẩu Lục Thánh Mai Khôi Thiên Chúa đường) có đôi câu đối ở mặt tiền như sau :
20 Địa đường cửu vị sơ nhân bế ;
Thiên lộ tân bằng Thánh Tử thông (51).
Lấy ra từ hai câu áp chót của bài thơ : Thiên
môn cửu vị sơ nhân bế ; Phúc lộc toàn thị Thần Tử thông (52),
chỉ thay đổi “thiên môn” bằng “địa đường” ở vế thứ nhất, và vế thứ
hai thay đổi hơi nhiều mà vẫn giữ lấy ý.
Địa là đất để đối với thiên
là trời, chứ “khu vườn trong Ê-đen” mà dịch là địa đường là không
ổn (53). Trong đôi câu trên, đường đối với lộ
là con đường đi, lối, ngõ. Cửu là xưa, cũ, đối với tân là mới. Sơ
là ban đầu, đối với tái là lại, lần nữa ; nguyên là (người) đầu hết
đối với tổ cũng là người đầu hết (của một dòng tộc...).
Đôi câu “Địa đường cửu vị ...” cũng
được các nhà thờ khác tại Trung Hoa sử dụng như nhà thờ Thánh Gia Lộc Liêu (Lộc Liêu
Thánh Gia đường), huyện Vân Lâm, Giáo phận Gia Nghĩa ; lại cũng được đắp trên mặt tiền nhà thờ An Vân
tại Việt Nam đã nói đến ở đầu bài (hơi khác đôi chút).
Tại nhà thờ thánh Giuse Tam Lí Kiều (Tam
Lí Kiều thánh Nhược-sắt đường), Vô Tích, Nam Kinh, dưới cây Thánh Giá trên
nóc nhà thờ có ba chữ Thiên Chúa đường ; ở hai bên, thấp hơn một chút,
có đôi câu đối cũng do vua Khang Hi soạn :
21 Vạn hữu tư sinh / uyên vi mạc trắc ;
Nhất nguyên mặc hóa / hạo đãng nan danh
(54).
Theo mặt chữ thì có thể dịch là :
Mọi vật đều được phú bẩm cho sự sống,
sâu nhiệm khôn lường ;
Một đầu mối làm việc hóa cách kín ẩn,
to lớn rộng rãi khó gọi được tên.
Tuy nhiên, nếu hiểu Vạn Hữu theo ý tứ của Ngã đích Vạn Hữu như ở Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giê-su Nam Cảng, thì khi
đó Nhất nguyên cũng cần hiểu là nguồn gốc duy nhất. Như vậy, đôi
câu đối trên đây có nghĩa là :
Đấng Vạn Hữu ban sự sống cách mầu nhiệm
khôn lường ;
Đấng Nhất Nguyên kín ẩn hoá sinh mênh
mông khó gọi tên.
Hoá : một chữ rất khó dịch cho gọn. Nói chung, hoá
là biến đổi, như từ không làm thành có : sự tạo thành ; từ xấu sửa đổi nên tốt
: sự dạy dỗ. Đấng Nhất Nguyên làm sự hoá tức là làm việc tạo dựng,
lại còn làm việc dạy dỗ. Chữ hoá này sẽ còn gặp trong nhiều câu đối dưới
đây.
Nan danh : gợi lại ý của danh
khả danh phi thường danh (55) (cái tên có thể gọi ra tên
là cái tên không thường hằng) trong Đạo Đức Kinh của Trang Tử. Danh của
Đức Chúa chỉ được mặc khải cho Mô-sê : Ta là Đấng Có, Hằng Hữu (Exod
iii, 14 ; Lat. : Ego sum qui sum).
Còn ở cổng vào có đôi câu đối :
22 Vũ trụ vạn tượng Thiên Chúa tự tạo ;
Tông giáo nhất chân Da-tô thân truyền (56).
Muôn hình tượng trong vũ trụ Thiên Chúa tự
dựng nên ;
Một tông giáo chân thật chính Đức Giêsu
truyền lại.
Đôi câu này cũng là đôi câu ở ngoài cổng vào
nhà thờ Mai Khôi, Đẩu Lục (Đẩu Lục Mai Khôi Thiên Chúa đường) kể trên.
Người ta cho rằng các câu đối của vua Khang
Hi làm cho nhà thờ Nam Đường mở đầu cho việc sáng tác những câu đối Công giáo
khác ở Trung Hoa. Tuy nhiên, theo Trung quốc Cơ-đốc giáo sử cương (57)
của tác giả Vương Trị Tâm (58), do Thượng Hải cổ tịch
xuất bản xã xuất bản, thì người ta đã phát hiện được tại Giang Tây một cây
Thập tự giá bằng sắt có ghi niên hiệu của Đông Ngô thời Tam Quốc là Xích Ô
(niên hiệu tồn tại từ năm 238 đến 250) cùng với đôi câu :
23 Tứ hải khánh an lan /
thiết trụ bảo quang lưu thập tự ;
Vạn dân hoài đại trạch /
kim lô hương triện ái thiên thu. (59)
Nghĩa là :
Bốn biển mừng lặng sóng,
ánh sáng báu của trụ sắt lưu lại thập
tự ;
Muôn dân nhớ ân huệ to lớn,
trầm thơm lò vàng quấn quýt ngàn năm.
Triện hương hình
chữ Thọ
đã cháy hết 3/4 |
Triện hương
hình chữ Thọ
đã cháy hết 3/4
|
Tiếp theo có lẽ nên nói đến các câu đối tại
nhà thờ Diêm Thủy, Đài Nam. Nhà thờ này còn gọi là nhà thờ Chúa Thánh Thần (Thánh
Thần đường), toạ lạc trên đường Tây Môn, trấn Diêm Thủy, Đài Nam. Đây là một kiến
trúc độc đáo, mang đậm phong cách Trung Hoa truyền thống. Ở cổng nhà thờ (trông
ra đường Cửa Tây, Tây Môn lộ) có đôi sư tử đá, trên hai trụ cổng hai bên
có đôi câu đối :
24 Thiên sinh bách cốc dưỡng
sinh dân /
sinh sinh bất tức thường sinh Chúa ;
Chúa hoá vạn vật hiển hoá công /
hoá hoá vô cùng tạo hoá thiên (60).
Đôi câu này dùng lối chơi chữ “điệp tự”. Có
bốn chữ được điệp :
- chữ “thiên” ở đầu vế trên được điệp
ở cuối vế dưới ;
- ngược lại, chữ “chúa” ở đầu vế dưới
chính là chữ điệp của chữ cuối vế trên ;
- chữ “sinh” và chữ “hoá” được
điệp riêng trong từng vế, mỗi chữ xuất hiện năm lần ở các vị trí ứng nhau trong
cả hai vế.
Vì thế, chỉ có thể hiểu lấy ý mà không thể dịch
trọn vẹn vừa ý vừa chữ :
Trời (cũng tức là Chúa Trời) sinh trăm thứ
thóc lúa (= lương thực) để nuôi dân cho sống, Chúa (Trời) hằng sống cứ (làm việc
cho các loài) sinh sản ra mãi không nghỉ ;
Chúa (Trời) hoá vạn vật (dựng nên muôn
loài từ không) rạng rỡ công tạo hoá của Người, Đấng (Chúa) Trời tạo hoá mãi
dùng quyền năng mà hoá mãi không cùng.
Từ cổng nhìn vào trong, có thể thấy ngay đài
Đức Mẹ (Thánh Mẫu đình), hình lục giác đều, xây dựng theo lối cổ điển. Chính
giữa điện là tượng Đức Mẹ ẵm Chúa Giê-su, đúc theo phong thái Trung Hoa, từ diện
mạo đến y phục. Trên hai trụ cửa vào điện có đôi câu đối :
25 Thánh đức dực hoàng minh du nhật ;
Mẫu nghi ôn hậu ái như xuân (61).
Vẻ rực rỡ chói lọi của nhân đức thánh
sáng quá mặt trời ;
Vẻ êm ái thắm thiết của đấng Mẫu nghi ngời
ngời như mùa xuân.
Một trong các cửa sổ của nhà thờ có bức họa
cảnh Đức Mẹ từ trần, hai bên có đôi câu :
26 Ư kim thân tiến trường sinh địa ;
Tùng thử hồn quy bất dạ thiên (62).
Đến nay thân tiến vào cõi sống lâu dài ;
Theo đó hồn về cõi trời không có ban đêm.
Bên trái lối đi từ cổng vào là cửa vào nhà
thờ (Tế Thiên điện = đền tế lễ Chúa Trời) với đôi câu đối hai bên cửa :
27 Thiên lộ thị chân lộ / mạc tẩu thố lộ ;
Chúa môn phi tà môn / ưng tiến chính môn
(63).
Đường lên trời là đường thật,
chớ đi đường lầm lạc ;
Cửa nhà Chúa không phải cửa tà vạy,
nên đi vào cửa ngay chính.
Đây lại là một đôi câu vừa điệp tự, vừa
khoán thủ khác : hai chữ đầu hai vế ghép thành Thiên Chúa. Mỗi chữ lộ
và môn đều điệp tới ba lần trong các vị trí tương ứng ở hai vế.
Bên trong nhà thờ, trên gian cung thánh có
đôi câu vừa viết lối triện, vừa lối chân :
28 Nhãn tiền thoại biệt bính /
vi Hoàng Thiên thương ngân mệnh ;
Thân hậu lưu niệm tửu /
thị Cứu Chúa tiên huyết triều (64).
Bánh li biệt nói trước mắt
là mình mang thương tích của Chúa Trời
;
Tự để lại rượu nhắc nhớ về sau
là dòng máu tươi của Chúa cứu chuộc.
Đôi câu này thuật lại cách ngắn gọn các biến
cố xảy ra vào đêm trước chịu nạn của Chúa Giê-su. Biệt
bính (bánh li biệt) và Niệm tửu (rượu ghi nhớ) :
Chúa Da-tô tại Tha bị giao phó đích na nhất dạ, nã khỉ
bính lai, chúc tạ liễu, phách khai, thuyết : Giá thị Ngã đích Thân Thể, vị nễ
môn nhi xả đích, nễ môn ưng giá dạng hành, vị kí niệm Ngã. Vãn xan hậu, hựu đồng
dạng nã khỉ Bôi lai thuyết : Giá Bôi thị dụng Ngã đích Huyết sở lập đích Tân ước,
nễ môn mỗi thứ hát, ưng giá dạng hành, vị kí niệm Ngã (65)
= Chúa Giê-su trong đêm bị nộp, Người đã cầm lấy Bánh, tạ ơn đoạn, bẻ ra
và bảo : Này là Mình Thầy, vì anh em mà bị nộp, anh em hãy làm việc này mà nhớ
đến Thầy." Sau bữa ăn tối, Người cũng nói thế về Chén : "Này là Giao
ước mới trong Máu Thầy, anh em hãy nhớ đến Thầy mỗi khi làm việc này." (1
Cor xi, 23-26).
Chung quanh nhà thờ có các tranh vẽ Mười bốn
chặng đàng Thương khó, hai bên mỗi bức tranh là một đôi câu đối nói đến nội dung
của chặng. Thí dụ Chặng thứ nhất :
29 Tạm tá quan nha toàn Phụ mệnh ;
Liêu kí trần thế cực nhân linh (66).
Tạm mượn chỗ quan nha để làm mệnh Cha nên
trọn ;
Tạm gửi cõi trần thế để đưa hồn người lên
cao.
Toàn Phụ mệnh : nhắc lại lời cầu nguyện của
Chúa Giê-su trong vườn Getsemani : Xin đừng theo ý con, nhưng là theo ý Cha, Mt xxvi, 39.
Ở đây xin được mở ngoặc để nói thêm đôi chút
về cách trang hoàng nhà thờ Diêm Thuỷ.
Toàn bộ cách bài trí của nhà thờ đều mang đậm
nét Trung Hoa. Không những thế, tất cả các hình vẽ các nhân vật, từ Chúa
Giê-su, Đức Mẹ, các thánh Tông đồ, quan Phi-la-tô, quân lính… đều mang dung mạo,
phục sức của người Trung Hoa. Đặc biệt bối cảnh gian cung thánh : bên trên Nhà
Tạm là bức họa hình Chúa và các Tông đồ ăn bữa Tiệc li, trên nữa là bức họa Ba
Ngôi.
Khác với cách thể hiện thông thường của
phương Tây, trong bức vẽ này, Ba Ngôi được hình dung không chỉ có mạo trạng
Trung Hoa, mà còn được vẽ giống nhau cả về hình dung, tuổi tác..., ngồi ngang
hàng nhau : Ngôi Cha ngồi chính giữa, tay hữu cầm quyền trượng, đầu quyền trượng
có hình bàn tay, tay tả mang địa cầu, ngụ ý Cha tạo dựng ; Ngôi Con ngồi bên hữu
Cha, tay hữu cầm quyền trượng đầu có hình thập tự giá, tay tả mang con chiên
con, đều ngụ ý Con cứu chuộc ; Ngôi Thánh Thần ngồi bên tả Cha, tay hữu cầm quyền
trượng đầu có hình ngọn lửa, tay tả mang một chim bồ câu, đều nhắc lại các thể
hiện của Thánh Thần trong Kinh Thánh. Điều này muốn diễn tả ý : tuy là Ba Ngôi
nhưng chỉ là Một Chúa, không Ngôi nào trước, không Ngôi nào sau, không Ngôi nào
hơn, không Ngôi nào kém (67). Trên đầu Ngôi Cha có hình quyển
thư với bốn chữ Vạn hữu chân nguyên.
Trong nhà thờ còn các bức vẽ khác miêu tả
các bậc thánh hiền Trung Hoa như Khổng Tử, Lão Tử..., hoặc trình bày lịch sử đạo
Công giáo trên đất Trung Hoa, như bức vẽ Lị Mã-đậu dữ Từ Quang Khải (68),
hai bên có đôi câu đối :
30 Đông tây lưỡng triết thám Thiên đạo ;
Trung ngoại song hiền tuân Chúa kinh (68).
Hai nhà triết học đông – tây tìm kiếm đường
(lên) trời ;
Cặp người hiền Trung Hoa – ngoại quốc noi
giữ kinh của Chúa.
Đôi câu này dùng cặp “trung – ngoại”
không chỉ là những tiếng chỉ nơi chốn với nghĩa đen là “trong – ngoài” để đối với
cặp “đông – tây”, mà còn theo cách nói của người Trung Hoa, thì “trung”
là nói tắt của “Trung Hoa” (bậc hiền triết Trung Hoa bên đông là Từ
Quang Khải), mà “ngoại” tức là “ngoại quốc [nhân] (bậc hiền triết
ngoại quốc bên tây là Lị Mã-đậu)". Hai chữ “lưỡng
– song” (đôi – cặp) đều mang nghĩa là “hai”, nhưng một tiếng T
(lưỡng) để đối với một tiếng B (song) ở cùng vị trí tương ứng. Hai chữ “hiền
– triết” đối nhau cũng cả về B – T, cả về nghĩa của từng
chữ, mà khó có thể dịch cho hết ý. Hai chữ “đạo – kinh” càng khó dịch,
không chỉ hiểu với nghĩa hẹp là “đường, lối” và “kinh sách”, mà còn hiểu theo
nghĩa rộng : Thiên đạo = đạo Trời, đạo ban xuống từ Trời, đạo dẫn đưa về
Trời, mà Trời (chữ “Thiên”) không thể hiểu với nghĩa nông cạn là khoảng
không trên đầu, mà phải hiểu với nghĩa “Nước Trời”, nơi có Cha trên Trời
thường tại. “Kinh” còn có nghĩa là “đường phải đi qua”, “Chúa kinh”
nghĩa là “đường đi như Chúa đã đi”.
Chú thích :
(1) Thí dụ nhà thờ Tân Châu, Vũng Tàu, nguyên cổng vào
có đôi câu đối Chữ Nho nhưng nề bằng Chữ Quốc Ngữ như sau (nguyên văn) :
Tân thuỷ hương nồng, giang sơn nhuận sắc ;
Châu thành cẩm tú, nhật nguyệt tăng quang.
Mặt Chữ Nho là :
新 水 香 濃 江 山 潤 色 ;
周 城 錦 繡 日 月 曾 光 .
Nghĩa là :
Dòng nước
mới thơm tho nồng nàn, sông núi làm cho nhuần vẻ ;
Thành bao
quanh như gấm như thêu, mặt trời mặt trăng làm cho thêm sáng.
Sau này nhà thờ được trùng tu, cổng và tường rào
cũng được đập đi xây mới, đôi câu này cũng biến mất !
(1') k(i)-ri-x(i)-tô còn có cách đọc cũ hơn nữa là kh(i)-ri-x(i)-tô, sát với âm của chữ Hi-lạp χριστος [khristos], viết hoa là ΧΡΙΣΤΟΣ, hai chữ đầu thường viết lồng với nhau (monogram) thành ☧ , mà nhiều lúc bị giảng sai là hai chữ p và x của mẫu tự Latin, có khi còn bị “giảng rộng” là viết tắt của chữ pax nghĩa là hòa bình !
(2) Có nhiều ý kiến cho rằng chữ 主 có âm
“Hán – Việt” là “chủ”, âm Nôm mới là “chúa”. Thực ra, không có
căn cứ nào để khẳng định như vậy. Có lẽ chỉ nên kết luận rằng “chủ” hoặc
“chúa” chẳng qua là hai cách đọc khác nhau của cùng một Chữ Nho 主 mà thôi,
và chọn cách đọc nào là do thói quen. Như chữ 主 宰 có thể đọc
là “chúa tể” hay “chủ tể” đều được ; nhưng hầu hết đều thấy trong
các sách vở Việt ngữ đọc 公 主 thành “công
chúa” mà không đọc (hay rất hiếm khi đọc) “công chủ”, hay 郡 主 đọc là “quận
chúa” mà không đọc “quận chủ”, 領 主 đọc là “lãnh chúa” mà không đọc “lĩnh chủ”
hay “lãnh chủ”... Thậm chí đôi câu đối giữa Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình
Trọng là hai câu toàn Chữ Nho, mặt chữ là :
玉 藏 一 點 , 出 爲 主 入 爲 王 ;
土
撤
半
横
, 順 者 上
逆
者
下
.
Câu này dẫn theo Giai-Thoại Làng Nho của Lãng
Nhân (Nam Chi tùng thư, 1966, trang 106 ; trong Văn Đàn Bảo Giám của
Trần Trung Viên, Mặc Lâm tái bản năm 1968 theo bản in năm 1932 của nhà xuất
bản Nam Ký cũng viết như thế nhưng không có mặt Chữ Nho). Dưới câu “Ngọc tàng ...” có viết tiếp :
Chữ ngọc
có một nét chấm, đem lên thì thành chữ chúa,
mà giấu đi thì thành chữ vương. (sic)
Theo Việt-Hán
Văn-Khảo của Phan Kế Bính (bản in
lần thứ hai : năm 1938, Editions Nam-Ky [= Nam Ký]), trang 52, không có Chữ
Nho, thì câu thứ hai là “Thổ tiệt...”, nhưng nội dung đoạn văn
cũng tương tự :
Vì là “giai thoại” (những câu chuyện hay được
kể lại) nên chẳng biết gốc gác thực sự là làm sao. Tuy nhiên, chữ 截
tiệt có nghĩa là cắt đi, còn 撤
triệt có nghĩa là giảm bớt. Về ý
nghĩa thì dùng chữ nào cũng được. Nhưng tiệt
hay triệt không phải đối tượng được
bàn đến ở đây. Trong cả ba tác phẩm, người đọc hẳn thấy ngay ở đoạn giảng
nghĩa, với ba chữ “chữ”, thì rõ ràng
“ngọc”, “chúa”, “vương” được kể
ngang hàng nhau là những “Chữ Nho” ;
nếu không thế thì “chúa” đã phải viết
là “chủ” mất rồi.
Xem lại các sách vở cũ hơn, như Tự Điển
Việt – Bồ – La của cha Alexandre de Rhodes (Roma, 1651), thì thấy có
cả chúa lẫn chủ với nghĩa tương đương. Nhưng trong quyển “Phép Giảng Tám Ngày...” in cùng năm, không chỗ nào thấy chữ “chủ” xuất hiện mà chỉ toàn gặp “chúa”, như “chúa í” (xuất hiện ít nhất 10 lần, ở các trang 36, 58, 59, 92,
93..., nay thường dùng “chủ ý” = ý chủ
quan của riêng cá nhân ; trang 61 còn có “í
đức Chúa cả”) bên cạnh “đức Chúa blời”,
“chúa nhà”... Các danh từ “Đức Chúa Trời” hay “Thiên Chúa” không phải là những chữ có sẵn trong tiếng Việt (cả
trong tiếng Tàu – đối với chữ 天
主
“Thiên Chúa”) khi cha de Rhodes
và các vị giáo sĩ đến nước Việt trước cha. Vì thế, các ngài phải căn cứ vào những
khái niệm sẵn có, cách phát âm sẵn có, để đặt ra những chữ mới để chỉ những
khái niệm mới sao cho người bản xứ có thể hiểu được. Vậy nếu khi các ngài đến
nước Việt, mà chữ 主 được đọc là “chủ” thường hơn so với cách đọc “chúa”, ắt các ngài sẽ dùng tiếng đó mà đặt
ra tiếng mới là “Thiên Chủ”, “Đức Chủ Trời”, như chính cha de
Rhodes đã xác nhận trong Phép Giảng Tám Ngày... : (t. 15) ... Vì vậy chẳng nên thờ trời, chẳng khá lạy trời,
(t. 16) lạy đức Chúa trời, thờ đức Chúa
trời thì mới phải. Nhân vì sự ấy khi thế gian nói rằng, lạy trời, thì thiếu một
chữ Chúa, thì phải thêm đơm chữ ấy: mà từ này về sau nói làm vầy, tôi lạy đức
Chúa trời, là Chúa cả trên hết mọi sự.
Hình
chụp nguyên bản như sau đây :
Trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh
Paulus Của, 1895 có quy ước : các Chữ
Nôm có kí hiệu tắt là n., Chữ Nho là c. (viết tắt của "chữ", tức là "Chữ Nho" ; như trước kia hay nói "hay chữ" có nghĩa là "giỏi Chữ Nho",
chẳng hạn trong bài thơ Hỏng Thi của Trần Tế Xương : "Rõ thật Nôm hay mà Chữ dốt" nghĩa là làm văn thơ Chữ Nôm thì hay, nhưng
mà làm bằng Chữ Nho thì dốt). Nhưng xem cả “chủ” lẫn “chúa”
đều thấy ghi c. cả (cùng trang
158, chủ ghi c., chú [= em của cha]
ghi n. ; trang 160, chúa ghi c., còn chùa
và chưa ghi n.) :
Trong Dictionnaire
Annamite-Français của Génibrel, J.F.M., 1898, chỉ quy ước Nôm
thì thêm chữ "n" ngay sau mặt Chữ Nôm của mỗi mục từ,
còn Chữ Nho thì không thêm gì cả, và nơi các chữ chủ, chúa
trong từ điển này cũng giống tự vựng của họ Huình :
(3) 上 榮 於 天 主 ; 下
和 於 善 人 .
(4) 天 主 受 享 荣 福 于 天 ; 良
人 受 享 太 平 于 地 .
(5) " 說 文 " : 觀 四 方 而 高 者 . " 釋 名 " : 臺 , 持 也 . 築 土 堅 高 , 能 自 勝 持 也 . " 爾 雅 , 釋 宮 " : 闍 謂 之 臺 . " 註 : 積 土 四 方 也 .
(6)
Thí dụ câu Lu-ca i, 37, bản dịch KT Công giáo tiếng Hoa (tại :
http://www.vatican.va/chinese/bibbia/nuovo-testamento/Vangelo-Luca_zh-t.pdf) là
: 因 為 在 天 主 前 沒 有 不 能 的 事 [nhân vị tại
Thiên Chúa tiền một hữu bất năng đích sự = trước mặt Chúa Trời chẳng có việc
gì là không thể],
Nhưng người ta có thể viết (xem tại :
http://www.legion-of-mary. org.hk/03_Reading/ Handbook/C39.html) : 在 天 主 臺 前 沒 有 不 可 能 的 事 [tại Thiên
Chúa đài tiền một hữu bất khả năng đích sự = trước toà / ngai
Chúa Trời...].
Cũng thế, các câu Khải huyền viii, 3
và ix, 13 theo bản dịch Công giáo tiếng Hoa (tại :
http://www.vatican.va/chinese/bibbia/nuovo-testamento/Apocalisse_zh-t.pdf) lần
lượt là :
又 來 了 另 一 位 天 使,持 著 金 香 爐,站 在 祭 壇 旁;給 了 他 許 多 乳 香,為 同 眾 聖 徒 的 祈 禱,一 起 獻 在 寶 座 前 的 金 壇 上 [hựu lai
liễu lánh nhất vị thiên sứ, trì trứ kim hương lô, trạm tại tế đàn bàng ; cấp liễu
tha hứa đa nhũ hương, vị đồng chúng thánh đồ đích kì đảo, nhất khởi hiến tại bảo
toà tiền đích kim đàn thượng], và :
第 六 位 天 使 一 吹 了 號 角,我 聽 見 有 一 種 聲 音,由 天 主 前 的 金 祭 壇 四 角 發 出 [đệ lục vị
thiên sứ nhất xuy liễu hiệu giác, ngã thính kiến nhất chủng thanh âm, do Thiên
Chúa tiền đích kim tế đàn tứ giác phát xuất].
Nhưng bản dịch Chính Thống giáo tiếng Hoa (tại
: http://jesus.tw/ Orthodox/Apocalypse) là :
又 一 天 神、執 金 鑪、立 祭 臺 前、有 授 以 多 香 者、為 其 以 香 與 聖 徒 祈 禱、共 獻 於 寶 位 前 之 金 臺 [hựu nhất thiên thần, chấp kim lô, lập tế
đài tiền, hữu thụ dĩ đa hương giả, vị kì dĩ hương dữ thánh đồ kì đảo, cộng hiến
ư bảo vị tiền chi kim đài], và :
其 六 天 神 吹 角、卽 有 聲 出 自 天 主 前 金 臺 四 犄 角 中 [kì lục thiên thần xuy giác, tức hữu thanh
xuất tự Thiên Chúa tiền kim đài tứ cơ giác trung].
Các chữ "kim đài" trong những
câu trên đây chỉ mang nghĩa là "ngai / toà".
(7) ( 天 主 ) 聖 教 日 課 .
(8) 向 聖 若 瑟 誦 .
(9) Nguyên văn trong Thánh Giáo Nhật Khoá : 至 能 至 仁 者 天 主 . 惟 主 預 簡 義 人 達 味 之 裔 聖 若 瑟 爲 童 貞 聖 母 瑪 利 亞 之 凈 配 , 復 選 伊 爲 鞠 養 耶 穌 者 , 祈 主 爲 彼 勳 勞 , 俾 聖 而 公 會 樂 享 太 平 , 併 賜 我 等 咸 受 永 照 安 慰 . 伏 望 吾 主 , 荷 蒙 至 聖 母 凈 配 之 功 勣 , 翼 衛 我 等 . 吾 力 所 不 能 , 惟 賴 其 轉 達 , 莫 不 允 護 . 乃 爾 與 天 主 罷 德 肋 , 及 天 主 斯 彼 利 多 三 多 , 爲 一 天 主 乃 生 乃 王 世 世 . 亞 孟 . [Chí năng
chí nhân giả Thiên Chúa, duy Chúa dự giản nghĩa nhân Đạt-vị chi duệ
thánh Nhược-sắt, vi đồng trinh Thánh Mẫu Mã-lị-á chi tịnh phối,
phục tuyển Y vi cúc dưỡng Da-tô giả ; kì Chúa vị Bỉ huân lao, tỉ thánh
nhi công hội, lạc hưởng thái bình, tính tứ ngã đẳng hàm thụ vĩnh chiếu chi an
úy. Phục vọng ngô Chúa, hà mông chí Thánh Mẫu tịnh phối chi công tích, dực vệ
ngã đẳng. Ngô lực sở bất năng, duy lại kì chuyển đạt, mạc bất doãn hộ. Nãi Nhĩ
dữ Thiên Chúa Bãi-đức-lặc, cập Thiên Chúa Tư-bỉ-lị-đa Tam-đa, vi
nhất Thiên Chúa, nãi sinh nãi vượng thế thế. Á-mạnh], dịch sát nghĩa : (Lạy)
Thiên Chúa toàn năng chí nhân, Chúa đã chọn sẵn hậu duệ của người có nghĩa
Đa-vit là thánh Giu-se làm bạn thanh sạch Thánh Mẫu Ma-ri-a, lại chọn Người làm
Đấng nuôi dưỡng Chúa Giê-su ; (chúng con) cầu xin Chúa vì công lao Người mà làm
cho Hội Thánh vui hưởng thái bình, cùng ban cho chúng con được chịu lấy sự coi
sóc an ủi mãi mãi. Cúi trông Chúa (chúng) con, cậy vì ơn (Người) đã có công trạng
làm bạn thanh sạch cùng Rất Thánh Đức Mẹ, xin che chở chúng con. Chúng con sức
hèn mọn, chỉ cậy nhờ chuyển đạt (của Người), xin chớ không thuận hộ phù. Chúa
là Đấng hằng sống hằng trị cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần đời đời.
A-men. Âm Tàu của các từ ngữ phiên âm mà không dịch trong bản kinh : 達 味 dáwèi
= david ; 瑪
利 亞 mǎlìyà
= maria ; 罷
德 肋 bàdélè
= pater ; 斯
彼 利 多 三 多 sībǐlìduō
sānduō = spirito sancto ; 亞 孟
yàmèng = amen].
(10) 淨 .
(11) 配 .
(12) 天 主 聖 母 之 淨 配 .
(13) 臣 .
(14) Đối
chữ : Ở cùng vị trí tương ứng trong hai vế đối nhau, nếu dùng hai chữ A và
B nào đó, mà nghĩa của hai chữ A, B đó trong văn mạch không hề đối nhau, nhưng
A đồng âm với A' và / hoặc B đồng âm với B', mà A' với B hoặc với B' (hay B với
A hoặc với A') lại có nghĩa đối nhau, thì việc đem A đối với B được gọi là
"đối chữ", tức là một kiểu đối "đồng âm liên tưởng".
Thí dụ :
... con
nào không nước mắt ; đối với
... cái ấy
phải non tay,
thì con
/ cái, nào / ấy, mắt / tay là những cặp chữ
đối nhau với nghĩa vốn có của chúng và những nghĩa này được dùng trong văn mạch,
đó là bình thường. Nhưng non ở vế dưới được dùng với nghĩa đáng ra là để
đối với già, nhưng vì đồng âm với non có nghĩa là núi (như hòn non
bộ = giả sơn) để đối với nước ở vế trên, thì trường hợp này chính là
"đối chữ", người viết đã "màu" non trong non
– già với non trong núi non. Cũng thế là cặp không (Chữ
Nho là 非
phi) / phải (chỉ điều bắt buộc, Chữ Nho là 必 tất, 須 tu,
應 ưng, 當
đương, 要 yêu..., đồng âm với phải
[đúng] = 是 thị).
(15) 神 .
(16) 世 間 無 二 女 ;
棘 裏 有 單 花 .
(17) 我 的 愛 卿 在 少 女 中 , 有 如 荊 棘 中 的 一 朵 百 合 花 .
(18) 地 堂 久 為 初 元 閉 ; 天 路 新 憑 再 祖 通 .
(19) 貞 表 翌 于 成 悟 後 ;
淑 詳 通 自 有 生 前 .
(20) 海 不 揚 波 非 苦 海 ;
星 能 生 日 最 明 星 .
(21) 秋 月 揚 明 , 女 德 光 騰 于 初 日 ;
春 風 共 在 , 祖 愆 潔 祀 于 朝 星 .
(22) 是 故 春 風 至 則 甘 雨 降 , 生 育 萬 物 .
(23) 春 風 朝 煦 , 蕭 艾 蒙 其 溫 .
(24) 曉 明 之 星 .
(25) 道 所 共 由 正 在 乾 坤 色 磅
礡 ; 人 曰 予 知 盖 于 造 化 祖 淵 源 .
(26) 日 月 光 輝 新 棟 宇 ;
山 川 環 拱 舊 耧 臺 .
(27) 易 ,
繫 辭 下 :
上 古 穴 居 而 野 處 , 後 世 聖 人 易 之 以 宮 室 , 上 棟 下 宇 , 以 待 風 雨 .
(28) 魯 靈 光 殿 賦 .
(29) 王 延 壽 .
(30) 神 靈 扶 其 棟 宇 , 歷 千 載 而 彌 堅 .
(31) 慈 航 最 顯 微 , 拂 拂 群 生 超 溺 海 ; 金 殿 極 高 大 , 祈 祈 眾 子 樂 天 宮 .
(32) 黃 金 之 殿 .
(33) 厚 吾 之 生 , 降 世 竟 成 吾 聖 侶 ; 飽
我 以 德 , 殉 身 還 作 我 神 糧 .
(34) 我 稱 你 們 為 朋 友 .
(35) 幻 世 浮 榮 不 足 滿 人 願 , 天 鄉 永 福 方 能 充 善 心 .
Có
nơi đọc vế thứ hai của câu này ra là … phương
năng khắc thiện tâm. Có lẽ vì mặt
chữ của 充
sung và 克 khắc khá giống nhau nên đọc sai, câu hóa ra vô
nghĩa. Lại có chỗ đọc là : Thiên hương vĩnh phúc phương năng suy thiện
tâm, và dịch là : Ơn đức lâu dài thơm thảo của Thiên Chúa giúp người suy gẫm
về lòng thiện (!). Kì thực, hương trong câu đối trên được viết là 鄉
, nghĩa là làng xóm, quê nhà…, 天 鄉 thiên hương nghĩa là quê trời,
không phải chữ 香 hương nghĩa là thơm tho, mùi thơm… như hay nghe
nói 國 色
天 香 quốc sắc thiên hương, nghĩa
là sắc nước hương trời ; còn sung mà đọc ra suy rồi suy diễn lung
tung ra là suy gẫm về lòng thiện ! Trong đôi câu này, mỗi chữ mỗi đối nhau : Ảo
là điều không thực, danh từ, đối với thiên là trời ; cặp chữ này dùng tu
sức cho cặp chữ đi liền sau là thế, nghĩa là cõi đời, đối với hương,
quê nhà. Phù là nổi, nổi trôi, bấp bênh, đối với vĩnh là mãi mãi,
cũng là cặp chữ tu sức cho vinh là điều vẻ vang rạng rỡ, đối với phúc.
Bất túc là tiếng kép, nghĩa là chẳng đủ, đối với tiếng kép phương
năng, nghĩa là cần có, cần phải, nên, có thể. Mãn và sung là
hai chữ gần nghĩa : trọn vẹn, đầy đủ (ngữ pháp bây giờ gọi là cặp từ cùng “trường
nghĩa”), đối nhau hoàn chỉnh. Nhân là người, dùng tu sức cho nguyện
là điều mong muốn, điều nguyện xin, đối với thiện là điều lành, tu sức
cho tâm là trái tim, dùng rộng ra là cõi lòng ; nhân nguyện nghĩa
là điều nguyện xin của con người, đối với thiện tâm là lòng lành. Đọc
khác đi, hiểu khác đi là làm mất tính cân xứng của đôi câu đối.
(36) 無 始 無 終 , 先 作 形 聲 真 主 宰 ; 宣 仁 宣 義 , 聿 昭 拯 濟 大 權 衡 .
(37) Lị
Mã-đậu là âm chữ Nho của 利
瑪 竇 , phiên âm trong tiếng Trung Hoa – Lì
Mǎdòu – tên của giáo sĩ người Í là Matteo Ricci, SJ., trong đó Lì
là phiên âm tắt tên họ Ricci, Mǎdòu là phiên âm tên thánh Matteo
– Mat-thêu. Ngài có các tên hiệu trong tiếng Hoa là 西泰 [Tây Thái], 清 泰
[Thanh Thái], 西 江 [Giang Tây] ; tên ngài phiên âm theo kiểu hiện
nay trong tiếng Hoa là 馬 泰 奧
里
奇
mǎtàiào lǐjī [Mã-thái-áo Lí-kì]. Ngài sinh ngày 6-10-1552 tại
Macerata trong Lãnh thổ Giáo hoàng, qua đời ngày 11-5-1610 tại Bắc Kinh, Trung
Hoa. Ngài là vị sáng khởi công cuộc truyền giáo tại Trung Hoa ; được vua nhà
Minh phong làm Sĩ đại phu, và được tôn xưng là 泰
西
儒 士 [Thái Tây nho sĩ]. Có thể xem thêm về ngài trong nhiều tài liệu,
thí dụ trang của Catholic Encyclopedia : http://www.newadvent.org/cathen/13034a.htm
(38) Thang
Nhược-vọng là âm Chữ Nho của 湯
若 望 , phiên âm tiếng Hoa – Tāng
Ruòwàng – của Johann Adam Schall von Bell, SJ., trong đó Tāng
phiên âm chữ Schall, Ruòwàng phiên âm chữ Johann (tên
thánh Gio-an trong tiếng Đức) ; phiên âm theo kiểu hiện nay là 約 翰
亞 當
沙 爾
馮 貝
爾
yāohàn adāng shāěr féng bèiěr [Ước-hàn Á-đang Sa-nhĩ Bằng Bối-nhĩ].
Ngài sang truyền giáo tại Trung Hoa và từ trần tại đó. Ngài có tên tự trong tiếng
Hoa là 道 未 Đạo Vị. Ngài sinh ngày
1-5-1591 tại Cologne, Đức, qua đời ngày 15-8-1666 tại Bắc Kinh, Trung Hoa. Có
thể xem thêm về ngài trong nhiều tài liệu, thí dụ trang http://www.newadvent.org/cathen/13520a.htm
của Catholic Encyclopedia.
(39) 欽 崇 天 道 .
(40) 萬 有 真 元 .
(41) 極 仁 極 愛 ; 至 善 至 謙 .
(42) 無 始 無 終 真 主 宰 ; 宣 仁 宣 義 大 權 衡 .
(43)
Không chỉ có cảm tình, có lẽ vua Khang Hi đã từng nghiên cứu sách vở và giáo lí
Công giáo cách nghiêm cẩn. Xin dẫn thêm bài thơ sau do nhà vua sáng tác, có tên
là Thập Giá Tụng, với hình chụp thủ bút của chính nhà vua.
十 架 頌
功 求 十 架 血 成 溪 , 百 丈
恩 流 分 自 西 .
身 列 四 衙 半 夜 路 , 徒 方 三 背 兩 番 鷄 .
五 千 鞭 撻 寸 膚 裂 , 六 尺 懸 垂 二 盗 齊 .
慘 慟 八 埃 驚 九 品 , 七 言 一 畢 萬
靈 啼 .
清 皇 帝 康 熙
Thập Giá Tụng
Công cầu Thập Giá huyết thành khê ;
Bách trượng ân lưu phân tự tê.
Thân liệt tứ nha bán dạ lộ ;
Đồ phương tam bội lưỡng phiên kê.
Ngũ thiên tiên thát thốn phu liệt ;
Lục xích huyền thùy nhị thứ tề.
Thảm đỗng bát ai kinh cửu phẩm ;
Thất ngôn nhất tất vạn linh đề.
Thanh Hoàng đế Khang Hi
Bài thơ này chọn bộ vần thứ tám của thượng
bình thanh là vần tề, gọi là bát tề 八
齊
, làm theo lối hạn từ. Toàn bài dùng mười lăm chữ nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập, bán, lưỡng, bách,
thiên, vạn, là những số từ, lại thêm bốn chữ phân, thốn, xích, trượng, là các từ đơn vị đo lường. Không những thế,
trong bài nói đến những điều được thuật lại trong Kinh Thánh và truyện tích
thánh, chứng tỏ tác giả từng đọc nhiều lần các đoạn đó, đến nỗi ghi khắc sâu
trong lòng. Vì thế, lời thơ tự nhiên, chứa đựng cảm xúc chân thật. Sau đây là bản
tạm dịch, sẽ có bài phân tích riêng.
Ca tụng Thập giá
Xin lập công chịu lấy thập giá mà máu chảy
thành dòng ;
Ơn của Người tuôn chảy trăm trượng chia từ
phương tây.
Nửa đêm thân mình bị xét xử ở bốn nơi ;
Bị học trò phản bội ba lần khi gà gáy hai lần.
Chịu đánh năm ngàn đòn tấc da tan nát ;
Bị treo rũ xác trên cao sáu thước giữa hai kẻ
trộm.
Khiến tám phương bụi bặm thảm thiết, chín phẩm
(thiên thần) kinh khủng ;
Bảy lời (cuối cùng) là hoàn tất lần duy nhất
cho muôn linh hồn không còn than khóc.
(44) 全 能 全 知 全 美 善 ;
至 公 至 義 至 仁 慈 .
(45) 天 主 全 能 全 知 全 美 善 ; 耶 穌 至 公 至 義 至 仁 慈 .
(46) 聖 父 聖 子 聖 神 , 無 始 無 終 惟 一 主 ; 全 能 全 知 全 善 , 至 中 至 正 獨 蒼 天 .
(47) 耶 穌 説 : 我 是 道 路 , 真 理 , 生 命 .
(48) 全 能 全 智 真 主 宰 ; 無 始 無 終 大 天 尊 .
(49) 我 的 天 主 ; 我 的 萬 有 .
(50) 生 命 之 寶
天 上 寶 日 月 星 辰 ,
地 上 寶 五 穀 金 銀 .
國 需 寶 正 直 忠 臣 ,
家 需 寶 孝 子 賢 孫 .
黃 金 白 玉 非 為 寶 ,
只 有 生 命 一 世 干 .
百 歲 三 萬 六 千 日 ,
若 無 生 命 最 可 憐 .
來 時 糊 塗 去 時 亡 ,
空 度 人 間 夢 一 場 .
口 中 吃 盡 百 和 味 ,
身 上 穿 成 朝 服 衣 .
五 湖 四 海 為 上 客 ,
如 何 落 在 帝 王 家 ?
世 間 最 大 為 生 死 ,
白 玉 黃 金 也 枉 然 .
淡 飯 清 粥 充 一 饑 ,
錦 衣 那 著 幾 千 年 ?
天 門 久 為 初 人 閉 , 福 路 全 是 神 子 通 .
我 願 接 受 神 聖 子 , 兒 子 名 分 得 永 生 !
清 康 熙 書
(51) 地 堂 久 爲 初 人 閉 ; 天 路 新 憑 聖 子 通 .
(52) 天 門 久 為 初 人 閉 , 福 路 全 是 神 子 通 .
(53)
Đường là cái nhà, cho dù là nhà lớn cỡ nào đi nữa thì cũng chỉ là nhà,
do đó địa đường (hay địa đàng) chẳng qua cũng chỉ có nghĩa là cái
nhà (bự !) ở dưới đất, vậy thì làm sao diễn tả hết ý nghĩa của paradisus in Eden trong Gen
ii, 8 được, có chăng là chỉ dùng để dịch Bet-Eden trong Amos i, 5
mà thôi. Có thể xem bản dịch Kinh Thánh Tư Cao : 上 主
天
主
在
伊
甸
東
部
種
植
了
一
個
樂
園
[Thượng Chúa Thiên Chúa tại I-điện đông bộ chủng thực liễu nhất cá lạc
viên]. Lạc viên là vườn vui vẻ, L. tương
ứng là paradisus voluptatis, là vườn chứ không phải là nhà.
Trong tiếng Hip-ri, גן [gan] có tương đương trong tiếng Hi-lạp
là παράδεισος [paradeisos] có nghĩa là "khu vườn đóng kín"
(so sánh với câu Nhã ca : "[em là] vườn khoá chặt", bản
Kinh Thánh Tư Cao dịch là 閉 園 [bế viên] hoặc 關
鎖
園
[quan toả viên], Cant iv, 12) ; còn עדן [‛ēden ; Hi-lạp : Ἐδέμ] có
nghĩa là sung sướng, vui vẻ, hạnh phúc.
Còn thiên
đường ? Chữ dùng này cũng sai nốt theo cách nhìn Ki-tô giáo. Trong các sách kinh điển của Nho giáo gọi là
十 三 經 [Thập tam kinh], gồm có : 詩 經 [Thi kinh],
尚 書 [Thượng Thư], 周 禮 [Chu Lễ], 儀 禮 [Nghi Lễ], 禮 記 [Lễ kí], 周 易 [Chu Dịch],
左 傳 [Tả truyện], 公 羊 傳 [Công Dương
truyện], 穀 梁 傳 [Cốc Lương truyện], 論 語 [Luận Ngữ],
爾 雅 [Nhĩ Nhã], 孝 經 [Hiếu
kinh], 孟 子 [Mạnh tử], đều không hề xuất hiện chữ 天 堂 thiên đường
này. Về sau, người ta tưởng tượng "trời" là một "nơi chốn"
trong đó các thần thánh đều có phẩm trật như một "triều đình" ở
trần gian, mà vị cai quản gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế (xem câu 33, Chí
thành tự thần minh...). Vì triều đình ở trần gian thì có triều đường, hoàng
cung, là các chỗ hội họp quần thần, chỗ ở của vua, nên "trời"
cũng phải có 天 庭 "thiên đình", 天 堂 "thiên
đường", 天 宮 "thiên cung", tóm lại là cũng phải
có cái nhà hay cái chỗ nào đấy. Với cách hiểu như vậy, rõ ràng những chữ
này đều không hề diễn tả được "vương quốc – trời" của Ki-tô
giáo. Do đó, nếu cứ bám víu mãi với những từ ngữ đã quen (nhưng không đúng), e
rằng không thể diễn tả chính xác những điều cần diễn tả. Kinh Thánh của anh em
Công giáo (và cả Tin Lành) Trung Hoa hiện nay không dùng các danh từ trên, mà
dùng 天 國 thiên
quốc. Tương tự thế, Kinh Thánh tiếng
Việt hiện cũng dùng danh từ nước trời ; vì nước trời không diễn tả
một "nơi chốn" mà là một "tình trạng" : được "thấy
mặt Đức Chúa Trời".
(54) 萬 有 資 生 淵 微 莫 測 ;
一 元 默 化 浩 蕩 難 名 .
(55) 名 可 名 非 常 名 .
(56) 宇 宙 萬 象 天 主 自 造 ; 宗 教 一 真 耶 穌 親 傳 .
(57) 中 國 基 督 教 史 綱 .
(58) 王 治 心 .
(59) 四 海 慶 安 瀾 , 鐵 柱 寶 光 留 十 字 ; 萬 民 懷 大 澤 , 金 爐 香 篆 藹 千 秋 .
Có thể xem : 基 督 教 究 竟 是 在 何 時 入 華 的 呢 ?
書 中 提 到 ,
最 早 可 能 是 公 元 一 世 紀 使 徒 多 馬 到 印 度 傳 教 時 ,
就 有 宣 教 士 進 入 了 中 國 ,
但 有 考 古 記 載 的 則 是 在 公 元 三 世 紀 . 明 代 洪 武 年 間 ,
江 西 廬 陵 發 掘 出 一 個 大 鐵 十 字 架 ,
上 面 鑄 有 對 聯 :
[ 四 海 慶 安 瀾 , 鐵 柱 寶 光 留 十 架 ; 萬 民 懷 大 澤 , 金 爐 香 篆 藹 千 秋 ]. 詩 詞 真 是 神 聖 美 麗 , 十 字 架 上 光 芒 榮 耀 ,
萬 民 得 上 帝 的 浩 大 恩 惠 !
十 字 架 上 ,
鑄 有 赤 烏 (
赤 烏 乃 三 國 孫 吳 年 號 , 在
238 - 251 年 之 間 )
年 月 .
Tạm dịch : Rốt
lại đạo Thiên Chúa đã vào Trung Hoa từ khi nào ? Xem trong sách vở, thời gian sớm
nhất có thể là khi tông đồ Tô-ma đến truyền giáo tại Ấn-độ vào thế kỉ I Công
nguyên, đã cho giáo sĩ vào đến Trung Hoa, song cứ theo các ghi chép xưa là vào
thế kỉ III. Khoảng các năm Hồng Vũ đời Minh, tại Lư Lăng, tỉnh Giang Tây, đã
đào lên được một thập tự giá lớn đúc bằng sắt có đôi câu đối (đã dẫn trên trong
bài) :
Tứ hải khánh an lan / thiết trụ
bảo quang lưu thập giá ;
Vạn dân hoài đại trạch / kim lô
hương triện ái thiên thu.
Trên thập tự giá còn đúc “Xích Ô niên,
nguyệt” (= tháng, năm Xích Ô – Xích
Ô là niên hiệu của Tôn Ngô đời Tam quốc, khoảng từ năm 238 - 251).
(60) 天 生 百 榖 養 生 民 , 生 生 不 息 常 生 主 ; 主 化 萬 物 顯 化 工 , 化 化 無 窮 造 化 天 .
(61) 聖 德 煜 煌 明 逾 日 ; 母 儀 溫 厚 靄 如 春 .
(62) 於 今 身 進 長 生 地 ; 從 此 魂 歸 不 夜 天 .
(63) 天 路 是 真 路 莫 走 錯 路 ; 主
門 非 邪 門 應 進 正 門 .
(64) 眼 前 話 別 餅 為 皇 天 傷 痕
命 ; 身 後 留 念 酒 是 救 主 鮮 血 潮 .
(65) 主 耶 穌 在 他 被 交 付 的 那 一 夜 , 拿 起 餅 來 , 祝 謝 了 , 擘 開 說 : " 這 是 我 的 身 體 , 為 你 們 而 捨 的 , 你 們 應 這 樣 行 , 為 記 念 我 ." 晚 餐 後 , 又 同 樣 拿 起 杯 來 說 : " 這 杯 是 用 我 的 血 所 立 的 新 約 , 你 們 每 次 喝 , 應 這 樣 行 , 為 記 念 我 ."
(66) 暫 借 官 衙 全 父 命 ; 聊 寄 塵 世 極 人 靈 .
(67) Bức
vẽ Ba Ngôi giống nhau này là sự cách tân về việc thể hiện mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi. Gần đây, thấy xuất hiện bên phương Tây hình vẽ Chúa Cha, Chúa Con giống
nhau, còn Chúa Thánh Thần vẫn dùng hình chim bồ câu. Có thể đọc thấy : “Ne
croyez pas que Je sois ce terrible vieillard que les hommes représentent dans
leurs images et dans leurs livres ! Non ! Non ! Je ne suis ni plus jeune, ni
plus vieux que Mon Fils et Mon Esprit Saint” trong Le Père Parle à Ses
Enfants (Cha nói với con cái ; Association “Dio è Pader – Casa Pater”,
Boîte Postale 135 – I – 67100 L’Aquila, Imprimatur : ✠ Petrus Canisius van Lierde, Vic.
Generalis e Vic. Civit. Vaticanae, Roma, die 13 Martii 1989). Bản dịch tiếng
Anh : “Do not think of Me as a frightening old man whom men depict in their
pictures and books ! No, no, I am neither younger nor older than My Son and My
Holy Spirit” (The Icon of the Divine Heart of God the Father – Apologia and
Canon, p. 36, Marcelle Bartolo-Abela, 2012). Tạm dịch : “Đừng tưởng rằng Cha
là một ông già đáng kinh sợ như người ta trình bày trong các bức họa hay các sách vở của họ ! Không ! Không ! Cha chẳng trẻ hơn mà cũng không già hơn Con
Cha và Thánh Thần của Cha”.
Tuy nhiên tại Việt Nam, ngay từ cuối thế kỉ
XIX, trong Sách Truyên Các Thánh Toát Yếu, đã đề cập ở đầu bài, diễn tả
khá chi tiết về Chúa Ba Ngôi, dù lời văn cổ xưa, nhưng ý tưởng đến nay vẫn là
điều mới mẻ. Xin giới thiệu một đoạn phiên âm, từ t. 124b – 125a :
(t. 124b) ... Có hai việc trọng hơn : một
là biết, hai là yêu, thì Đức Chúa Cha lấy hai giống ấy, mà hằng thông biết tính
mình chẳng có khi đừng, cho nên Đức Chúa Cha biết mình thì liền có Ngôi Con, vì
giống Đức Chúa Cha mọi đàng, khác một Ngôi mà chớ. Lại Ngôi Cha Ngôi Con khác
nhau thì hằng có Ngôi (S)pi-ri-to Sang-to là một ý một phép cùng Ngôi
Cha Ngôi Con, khác một Ngôi mà chớ. Ba Ngôi trọng vô cùng là Đức Chúa Trời thật.
Song le chớ ngờ là Cha sinh ra Con như người thế gian làm chi, vì chưng sự thế
gian là sự hèn. Đức Chúa Cha sinh ra Con cách lạ lắm : Đức Chúa Cha bởi thấy cùng
biết mình thì liền có Ngôi Con. Thí dụ như kẻ cầm gương mà muốn xem thấy mặt
mình thì hình tượng mặt mình lại có trong ấy. Vậy Đức Chúa Cha thông biết mình
thì liền sinh ra Con, là Ngôi Hai giống Đức Chúa Cha mọi sự, vì cũng một tính một
phép cùng Đức Chúa Cha. Ấy là Con thật, như dưới thế gian người ta sinh ra con
vì sinh ra giống mình. Ấy là sự về Ngôi Con thì làm vậy. Sau nữa bởi
Ngôi Cha Ngôi Con yêu nhau là yêu vô cùng liền có Ngôi khác là (S)pi-ri-to
Sang-to, nghĩa là Thần Thánh, cũng là lời chung cùng Ngôi Cha Ngôi Con. Song
le dưới thế gian chẳng có tiếng nào mượn được mà giảng cho ra lẽ trọng ấy, thì
lấy tên chung làm riêng mà rằng Ngôi Thứ Ba là (S)pi-ri-to Sang-to. Ấy vậy
Ngôi Thứ Nhất là Cha, Ngôi Thứ Hai là Con, Ngôi Thứ Ba là (S)pi-ri-to Sang-to.
Khi rằng "Ngôi Nhất, Ngôi Hai", thì chớ ngờ là Ngôi Nhất trọng,
Ngôi Hai hèn hay là kém phần nào chẳng bằng Ngôi Nhất làm chi, vì chưng Ba Ngôi
cũng một tính trọng vô cùng thì bằng nhau cả và ba. Sau nữa chớ ngờ là Cha thì
trước mà Con thì sau, vì có Cha liền có Con liền có (S)pi-ri-to Sang-to cũng
một trật, chẳng có Ngôi nào trước sau. Thí dụ như lửa : có lửa liền có (t.
125a) sáng liền có nóng. Ấy vậy có Ngôi Cha cùng có Ngôi Con cùng có Ngôi
(S)pi-ri-to Sang-to nữa. Chớ ngờ là Cha già Con trẻ làm chi ; sự già trẻ về
kẻ có xác hay mòn hay nát, như kẻ ở thế gian một ngày một lớn, khi đến ngằn ấy
thì lại trở xuống chẳng còn lớn nữa, càng ngày càng già hơn. Song le sự thiêng
liêng bởi chẳng có xác thì chẳng có khi già, vì chưng như xác ấy chẳng còn chết
nữa.
Khi vẽ hình Đức Chúa Cha thì vẽ như ông già
có nhiều tuổi, ấy là muốn cho người ta biết hằng có vậy. Khi vẽ hình Đức Chúa
Con thì vẽ như hình Ngôi Cha cũng được, vì cũng hằng có như Ngôi Cha nữa ;
song le bởi thuở xưa Ngôi Con xuống thế làm người thật, mà rày lên trời cũng
hãy còn tính người ta, thì vẽ bằng tuổi Người lên trời là ba mươi ba. Khi vẽ
Ngôi (S)pi-ri-to Sang-to thì vẽ như Ngôi Cha Ngôi Con cũng được ; song
le bởi thuở xưa Ngôi Ba lấy hình chim bồ câu mà đỗ trên đầu Đức Chúa Je-su,
thì vẽ như hình chim bồ câu ấy cho người ta được biết Ngôi (S)pi-ri-to
Sang-to. Sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi nói ít vậy, vì chẳng lấy được lẽ gì mà nói
cho hết sự ấy...
(68) 利 瑪
竇 與
徐 光
啓
; Từ Quang Khải 徐 光 啓 người đời Minh, sinh năm Gia Tĩnh 41
(tức 1562), qua đời năm Sùng Trinh 6 (1633), tự 子
先
Tử Tiên, hiệu 玄 扈
Huyền Hỗ, một nhà bác học Trung Hoa, đậu cử nhân lúc 35 tuổi, tiến sĩ năm 42 tuổi.
Từ năm 1600, ông gặp gỡ và kết thân với cha Ricci (tức Lị Mã-đậu, xem chú thích
3), học tập ở cha cả về giáo lí Công giáo (ông theo đạo năm 1603 với tên thánh
là 保 祿 Bảo-lộc [= Phao-lô]), cả về
các tri thức Tây phương, rồi đem áp dụng vào thực tế Trung Hoa. Ông vừa dịch vừa
viết rất nhiều tác phẩm, tiêu biểu như cùng dịch với cha Ricci tác phẩm Cơ
sở hình học của Euclide gồm 6 quyển với tên 幾
何 原
本
Kỉ hà nguyên bản (từ tên gọi này mà trước đây môn hình học vẫn được gọi
là môn kỉ hà học [kỉ hà = bao nhiêu]). Lương Khải Siêu đã đánh
giá bộ sách này là : 字 字 精
金 美
玉,是 千
古 不
朽 的
著 作 [tự tự tinh kim mĩ ngọc, thị
thiên cổ bất hủ trứ thư = từng chữ vàng ròng ngọc đẹp, là một trứ tác ngàn
đời không nát]. Chính trong bộ sách này, mà nhiều khái niệm toán học Tây phương
đã được diễn tả bằng Chữ Nho, như : điểm, tuyến, diện, bình diện, khúc tuyến,
khúc diện, trực giác (góc vuông), độn giác (góc tù), nhuệ giác
(góc nhọn), thùy tuyến (đường xiên), bình hành tuyến (đường song
song), tam giác hình, tứ biên hình, đa biên hình, viên (hình tròn), viên
tâm... Ông chủ biên 崇 禎 曆
書
Sùng Trinh lịch thư gồm 137 quyển là cơ sở cho lịch pháp Trung Hoa sốt
300 năm. Ông nghiên cứu nông nghiệp Tây phương, cùng 熊 三
拔
Hùng Tam Bạt hợp dịch 泰
西 水
法
Thái Tây thuỷ pháp gồm 6 quyển. Ông còn tự tham gia thực tế, như di thực
thành công giống khoai Phúc Kiến đến Thượng Hải. Khi đã già, ông còn soạn 農 政
全 書 Nông chính toàn thư gồm 60
quyển. Về phần đạo, ông soạn các sách dưới dạng văn vần để dễ học, dễ nhớ, như
: 大 讚
詩
Đại tán thi (viết theo thể kinh Thi), 獻
心 頌 Hiến tâm tụng, 耶 穌
像 贊 Da-tô tượng tán (ca ngợi tượng
Chúa Giê-su), 聖 母 像
贊
Thánh Mẫu tượng tán, 正
道 題
綱
Chính đạo đề cương (những điều chính về đường thật), 規 誡
箴 贊 Quy giới châm tán (các lời
răn), 十 誡
箴 贊 Thập giới châm tán (Mười điều
răn), 克 罪
七 德
箴 贊 Khắc tội thất đức châm tán (cải
tội bảy mối bằng bảy đức), 真
福 八
端 箴
贊
Chân phúc bát đoan châm tán (tám mối phúc thật), 哀 矜
十 四
端 箴
贊
Ai căng thập tứ đoan châm tán (Mười bốn mối thương xót).
Do tính ngay thẳng, cương trực, ông bị triều
đình ghét, nhưng vẫn luôn sống thanh liêm, chết trong cảnh rất túng quẫn (người
ta thuật lại là trong nhà không có đến 10 lạng bạc). Vua Sùng Trinh nhà Minh tặng
tên thụy là 文 定
Văn Định. Năm 1641, di cốt của ông được quy táng tại 徐 家
彙
Từ Gia Vựng (vựng cũng viết 汇 , 滙 , mà với các tự dạng này lại có thể
đọc là hối). Trước mộ của ông có bia đá lớn, trung ngạch đề : 文 武
元 勳 Văn vũ nguyên huân, bên phải
đề : Hi triều nguyên phủ, bên trái đề : Vương tá Nho tông, dưới
cùng đề : 明 故 大
夫 太
子 太
保 贈
少 保
太 保
禮 部
尚 書
兼 文
淵 閣
大 學
士 徐
文 定
公 墓
闕
Minh cố Đại phu Thái tử thái bảo, tặng Thiếu bảo thái bảo, Lễ bộ Thượng thư
kiêm Văn Uyên các Đại học sĩ Từ Văn Định công mộ khuyết. Hai bên bia tạc đôi câu đối :
治 歷 明 農 百 世 師 經 天 緯 地 ;
出 將 入 相 一 個 臣 奮 武 揆 文 .
Trị
lịch minh nông bách thế sư, kinh thiên vĩ địa ;
Xuất tướng nhập tướng nhất cá thần, phấn
vũ quỹ văn.
Nghĩa là :
Thầy trăm đời sửa sang lịch, làm tỏ nghề
nông,
dọc trời ngang đất ;
Một bề tôi ra làm tướng (võ), vào làm tướng
(văn),
hăng say việc võ, lo liệu việc văn.
Nói thêm về “xuất tướng nhập tướng”.
Chữ 將
dùng về quân sự, như đại tướng, thiếu tướng…; chữ 相 dùng về chính trị,
như thủ tướng, tể tướng. “Xuất tướng” có nghĩa là ra ngoài thì bảo vệ
giang sơn cương thổ, “nhập tướng” có nghĩa là vào triều thì bao quát việc
triều chính. Ở Việt Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng từng có câu đối Nôm (sau khi
cùng với quân của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp tan chúa Trịnh ở Bắc Hà, vương
kéo quân về Nam, để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại với Vũ Văn Dũng) như sau :
𨷑 抾 乾 坤 , 固
𠚢 𢬣 買 別 ;
𠚢 𠓨 將 相 , 此
虐 眜 麻 䁛 .
Mở
khép càn khôn, có ra tay mới biết ;
Ra vào tướng tướng, thử ngước mắt mà coi.
Chính đôi câu kiêu ngạo này đã nên mầm mống
làm tan tành sự nghiệp của Nguyễn Hữu Chỉnh.
(69) 東 西 兩 哲 探 天 道 ; 中 外 雙 賢 遵 主 經 .
BÙI NGỌC HIỂN
(còn tiếp)
Tham khảo thêm :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét