LỘ-ĐỨC THÁNH MẪU LƯỢC KÝ
(tiếp theo)
(tiếp theo)
路德聖母畧記
BÙI NGỌC HIỂN
phiên âm và chú thích
Kỳ 5
Các số ghi trong bản phiên âm dưới đây nhằm dễ dàng so sánh đối chiếu với nguyên bản. Theo cách viết văn Hán – Nôm truyền thống, câu văn không hề có các dấu chấm câu, ngắt đoạn. Trong quyển truyện này, có một số dấu chấm, và khi ngắt đoạn (paragraphe) thì để cách ra một khoảng bằng với một chữ, mà không có sang dòng mới. Cách trình bày như thế làm hình thức của bản văn không được sáng sủa. Vì thế, trong khi phiên âm, chúng tôi xin thêm vào các dấu chấm câu, và sẽ xuống dòng mới khi cần ngắt đoạn.
Số trong dấu { và } là số trang, số trong dấu [ và ] là số dòng tương ứng với nguyên bản, số trong dấu ( và ) là số chú thích bên dưới. Như đã trình bày ở phần Giới thiệu, những điều này làm cho mạch theo dõi của người đọc bị ảnh hưởng ít nhiều. Rất mong quý bạn đọc lượng thứ.
(Tiếp theo kỳ 4 :)
(Tiếp theo kỳ 4 :)
ĐOẠN
THỨ BA
VỀ
SỰ ĐỨC BÀ HIỆN RA LẦN THỨ HAI
Hai ngày hết sau là ngày mười hai và ngày mười ba, Bê-na-đê-ta
hằng nhớ Bà đã xem thấy nơi hang đá, những nói chuyện với em, với Xu-an-na,
và hai ba đứa trẻ nữ khác về Bà ấy, cùng ước ao cho lại được xem thấy Bà ấy
lần nữa. Đến ngày mười bốn là ngày lễ cả, khi đã xem lễ rồi, Bê-na-đê-ta xui em cùng Xu-an-na và hai ba đứa khác nữa xin phép mẹ ra hang đá thì
mẹ cho. Trong những...
{15}
[1] trẻ
ra nơi hang đá làm một cùng Bê-na-đê-ta, thì cũng có đứa sợ hãi bảo Bê-na-đê-ta
rằng :
[2] -
Hoặc Bà chị (39) trông thấy nơi hang đá nó là ma, là chước quỷ hiện đến làm hại
ta chăng ?
Bê-na-đê-ta [3] chối rằng :
- Chẳng phải,
vì tôi chẳng hề thấy người nào mặt mũi hiền lành đẹp đẽ bằng Người ấy bao giờ.
Nhưng mà [4]
dù Bê-na-đê-ta nói thể nào mặc lòng, các bạn cũng còn e sợ chưa yên lòng yên
trí. Có một đứa [5] bảo Bê-na-đê-ta rằng :
- Ta hãy đem
nước phép đi, mà đến nơi ví bằng còn thấy Bà ấy nữa, thì chị [6] sẽ rẩy nước
phép vào Bà ấy mà hỏi rằng : Có phải là Đấng Đức Chúa Trời sai đến thì hãy lại
gần đây, [7] bằng phải là chước ma quỷ thì hãy xở (40) ra cho kíp.
Bê-na-đê-ta
ưng nghe như vậy, rồi lũ trẻ mới [8] đưa nhau đến nhà thờ lấy nước phép, cùng đọc
một hai kinh đoạn thì ra hang đá ngay.
Khi chị em đến
[9] nơi thì chẳng thấy đí gì sốt. Bê-na-đê-ta bảo chúng bạn rằng :
- Ta hãy quỳ
xuống lần hột.
Chị em nghe,
[10] vừa đọc một hai kinh thì mặt Bê-na-đê-ta liền sáng cùng tỏ ra sự vui mừng.
Con mắt thì trừng trừng...
Chú thích :
(39) Hoặc Bà chị trông thấy... = Hay là Bà (mà) chị trông
thấy...
(40) xở ra : tiếng cổ, cũng như quay ra, lui ra,
trở ra. Tuy nhiên, như đã nói, trong quyển truyện này chữ dùng khá tinh tế, chữ
"dở" được viết với bộ 扌 "thủ" và chữ 與 "dữ" (t. 24, 32...) ; "giở" được viết với bô 歹 "ngạt"
và chữ 者
"giả" (t. 36...) ; "trở" : 阻 (t. 32...)
hoặc 呂 (t. 43... ; âm Nôm cổ đọc là "lở"). Ở
đây bản văn dùng chữ 處 , âm H-V là "xử", nên chúng tôi phiên
âm là "xở".
{16}
[1] nhìn xem trên hang đá, chẳng nom ra (41) lúc nào. Bà
lại hiện ra sáng láng tốt lành, miệng thì mỉm cười, tay thì [2] cầm tràng hột
cũng như lần trước. Bê-na-đê-ta bảo chị em rằng :
[3]- Kìa kìa, Bà đã hiện ra trên hang đá. Kìa kìa, hãy
xem, hãy xem.
Chúng bạn
trông đi, trông lại, trông lên, trông xuống, chẳng thấy gì sốt. Bê-na-đê-ta [4] lại
rằng :
- Kìa, Bà cười,
Bà chào.
Chúng bạn càng
rán mắt (42) trông xem, song chẳng thấy gì sốt, chỉ thấy mặt Bê-na- [5] đê-ta
ra sáng sủa khác thường lắm. Có một con bé trao lọ nước phép cho Bê-na-đê-ta,
thì Bê-na- [6] đê-ta đứng dậy rẩy nước phép hai ba cái mạnh bạo lắm. Tay thì rẩy
nước phép, miệng thì đọc rằng :
- Có phải [7]
là Đấng Đức Chúa Trời sai thì hãy lại gần đây.
Lạ thay, dù mà
Bê-na-đê-ta đọc lời ấy lớn tiếng, [8] thì chị em chúng bạn cũng chẳng nghe thấy
gì. Lần trước nước phép rơi phải cành mai khôi, lần sau rơi phải chân [9] Bà ấy.
Nước vừa rơi đến chân Bà ấy, thì Bà ấy liền mỉm cười bước lại gần hai bước. Bà ấy
nghe đọc [10] tên cực trọng Đức Chúa Trời thì bái kính tên cực trọng, lúc ấy mặt
Người lại càng giãi sáng ra hơn nữa.
Chú thích :
(41) chẳng nom ra = không nhìn ra chỗ khác = không lo ra,
không chia trí. Còn gặp kiểu nói này ở trang 27...
(42) rán mắt : chữ "rán" là chữ thuần
Nôm, được viết bằng cách ghép chữ 旦 "đán" ở bên trái chỉ âm, với chữ 力 "lực"
bên phải chỉ ý, tự dạng gần giống chữ 助 "trợ" (nghĩa H-V là giúp đỡ). Theo từ
điển Génibrel, "rán mắt lên" là : "ouvrir de grands yeux pour
voir" (= mở to mắt mà nhìn).
{17}
[1] Bê-na-đê-ta lại đọc câu "Có phải là Đấng Đức
Chúa Trời sai thì hãy lại gần đây" một lần nữa, song [2] chẳng dám đọc câu
rằng "Mi có phải là ma quỷ thì hãy xở ra cho kíp", vì đã tin thật chẳng
phải ma [3] quỷ hay là giống gì dữ bởi ma quỷ mà ra. Bê-na-đê-ta lại bảo chị em
rằng :
- Kìa, các chị
em, [4] khi tôi rẩy nước phép vào Bà ấy, thì Bà ấy trông lên trời, và cúi mình
xuống bên tôi một ít.
Khỏi một [5]
lúc, Bê-na-đê-ta lại rằng :
- Sao các chị
chẳng xem thấy Bà ? Này (43), Bà ở đây. Bà đang trông nom ta bây [6] giờ. Rầy
Bà mỉm cười. Rầy Bà quay mặt ra. Kìa, chân Bà đấy. Hai mái thắt lưng Bà phất
phơ. Tràng hột Bà [7] quấn vào cánh tay. Ôi, Bà đẹp đẽ tốt lành là dường nào.
Này, Bà cầm tràng hột làm dấu Câu-rút.
[8] Bê-na-đê-ta nói bấy nhiêu lời, đoạn quỳ gối xuống làm
dấu Câu-rút cùng lần hột. Bê-na-đê-ta quỳ [9] thẳng gối lên, chắp tay cầm tràng
hột trông lên cửa hang đá, mình mẩy hơi chúi nghiêng xiêu về hang đá, như [10]
thể là chẳng những trí cùng lòng, mà lại xác cũng hướng về Bà hiện ra ấy nữa. Mặt
mũi thì sáng sủa, thỉnh...
Chú thích :
(43) Trong nguyên bản dấu chấm câu không đặt sau
chữ "Bà", mà lại đặt sau chữ "Này". Như thế đọc lên không
được rõ nghĩa (Sao các chị chẳng xem thấy Bà này ? Bà ở đây). Chúng tôi ngắt
câu lại.
{18}
[1] thoảng thấy một hai giọt nước mắt chảy ra. Âu là lời
Bê-na-đê-ta, là kẻ thanh sạch cùng ngay thật, cầu [2] xin ngợi khen Rất Thánh Đức
Bà bấy giờ thì đẹp lòng Người lắm. Bê-na-đê-ta lần hột vừa xong thì Đức [3]
Bà lại biến đi ngay.
Những trẻ theo
Bê-na-đê-ta ra hang đá về nhà thì kháo chuyện ấy mọi nơi [4] trong phố Lộ-đức.
Đến ngày hôm sau hầu hết mọi người biết có một Bà hiện ra cùng Bê-na-đê-ta nơi
[5] hang đá Ma-sa-bi-e, thì ai nấy đều lấy làm lạ, vì chưa nghe việc làm vậy
bao giờ. Có nhiều người [6] chẳng tin lại truyền rằng :
- Trò trẻ con,
tin làm gì những chuyện trẻ con bày đặt !
Cha mẹ
Bê-na-đê-ta cũng [7] không tin, lại rằng :
- Con chúng tôi
in trí đấy. Nó tưởng mình xem thấy, nhưng mà nó chẳng xem thấy đâu.
Có nhiều [8]
người đến tận nhà hỏi han Bê-na-đê-ta, mà thấy Bê-na-đê-ta lấy những lời ngay
thật, kể rành rọt [9] mọi điều sự (44) Bà ấy ăn mặc thể nào, điệu dáng làm
sao..., thì tin thật có Đấng đã hiện ra cùng Bê-na- [10] đê-ta nơi hang đá,
song chẳng biết luận là Đấng nào ! Có kẻ rằng :
- Có khi là
linh hồn nơi lửa giải tội (45)...
Chú thích :
(44) kể rành rọt mọi điều sự Bà ấy... = kể rành rọt mọi
điều về sự Bà ấy...
(45) nơi lửa giải tội = nơi luyện ngục (Latin :
purgatorium, từ động từ purgare = tinh luyện, làm cho sạch).
(Còn tiếp)
1 nhận xét:
thank blog
Đăng nhận xét