Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

LỘ-ĐỨC THÁNH MẪU LƯỢC KÝ (006)

LỘ-ĐỨC THÁNH MẪU LƯỢC KÝ
(tiếp theo)

路德聖母畧記

BÙI NGỌC HIỂN
phiên âm và chú thích


Kỳ 6


     Các số ghi trong bản phiên âm dưới đây nhằm dễ dàng so sánh đối chiếu với nguyên bản. Theo cách viết văn Hán – Nôm truyền thống, câu văn không hề có các dấu chấm câu, ngắt đoạn. Trong quyển truyện này, có một số dấu chấm, và khi ngắt đoạn (paragraphe) thì để cách ra một khoảng bằng với một chữ, mà không có sang dòng mới. Cách trình bày như thế làm hình thức của bản văn không được sáng sủa. Vì thế, trong khi phiên âm, chúng tôi xin thêm vào các dấu chấm câu, và sẽ xuống dòng mới khi cần ngắt đoạn.


     Số trong dấu { và } là số trang, số trong dấu [ và ] là số dòng tương ứng với nguyên bản, số trong dấu ( và ) là số chú thích bên dưới. Như đã trình bày ở phần Giới thiệu, những điều này làm cho mạch theo dõi của người đọc bị ảnh hưởng ít nhiều. Rất mong quý bạn đọc lượng thứ.



(Tiếp theo kỳ 5 :)


     Có nhiều người đến tận nhà hỏi han Bê-na-đê-ta, mà thấy Bê-na-đê-ta lấy những lời ngay thật, kể rành rọt mọi điều sự Bà ấy ăn mặc thể nào, điệu dáng làm sao..., thì tin thật có Đấng đã hiện ra cùng Bê-na-đê-ta nơi hang đá, song chẳng biết luận là Đấng nào ! Có kẻ rằng :

     - Có khi là linh hồn nơi lửa giải tội...





{19}

[1] hiện về xin người ta làm lễ cầu nguyện cho mình chăng ?

[2] ĐOẠN THỨ BỐN

[3] VỀ SỰ RẤT THÁNH ĐỨC BÀ HIỆN RA LẦN THỨ BA, CÙNG VỀ LỜI NGƯỜI PHÁN BẢO TRƯỚC HẾT

[4] Sáng sớm ngày mười tám, có hai người đàn bà đến nhà Bê-na-đê-ta rủ ra hang đá. Một người con gái [5] chưa kết bạn tên là An-tô-ni-a, và một người đã có chồng (46). Hai người ấy bảo Bê-na-đê-ta rằng :

[6] - Bà hiện ra nơi hang đá thường là linh hồn nơi lửa giải tội hiện về cho được xin làm lễ cầu nguyện cho [7] mình. Khi đến nơi, chị sẽ hỏi tên Bà ấy là gì, Bà hiện ra đây có ý nào. Mà kẻo chị chẳng hiểu [8] lời Bà ấy nói, thì ta sẽ đưa giấy bút, xin Bà ấy viết ra làm bằng.

     Ba người xem lễ rồi, độ giờ [9] thứ sáu rưỡi (47) thì cầm nến phép và giấy bút đưa nhau ra hang đá. Ngày hôm ấy nhà xay lúa đâm bột đã [10] chữa máy xong, cùng đã tháo đập cửa sông đào, cho nên nước chảy vào mấp mé bờ sông, không có thể đi lối...

Chú thích :

(46) An-tô-ni-a : phiên âm theo tiếng Tây-ban-nha (và cả tiếng Bồ-đào-nha) là Antonia ; tên tiếng Pháp của thiếu nữ chưa kết bạn là Antoinette Peyret và người phụ nữ kia là [Madame] Mihlet.

(47) giờ thứ sáu rưỡi : trong truyện dùng cách tính giờ ở VN ngày xưa. Theo đó giờ thứ nhất tức là giờ , từ 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Giờ thứ sáu là giờ Tị, từ 9 giờ đến 11 giờ. Vậy giờ thứ sáu rưỡi là vào khoảng 10 giờ sáng.




{20}

[1] tắt ra hang đá như hai ngày trước được, phải trèo qua núi cao, rồi xuống nơi dốc khó đi lắm thì mới đến [2] hang đá được. Hai người đàn bà kia thấy vậy thì lấy làm ngại ngùng, bằng Bê-na-đê-ta thì chạy lon lon [3] đi trước chị em lanh trai (48) lắm. Bê-na-đê-ta vốn yếu đuối và có bệnh hen, hễ đi mau chân hay là [4] trèo nơi dốc một chút, liền hết hơi ngay không đi được nữa. Chẳng biết vì sao ngày hôm ấy nó khoẻ mạnh lanh [5] trai quá sức thể ấy.  Hẳn là bởi Đức Bà thêm sức cho nó chẳng sai.

     Khi hai người kia lên đến đỉnh núi [6] thì nhọc mệt, thở hổn hển, vã mồ hôi ra ướt cả xống áo, bằng Bê-na-đê-ta thì chẳng có mồ hôi [7] cùng chẳng tỏ ra dấu gì nhọc sốt. Khi xuống sườn núi nơi dốc lắm, hai người đàn bà kia đi thong thả, dò [8] từng bước kẻo trật chân mà ngã, còn Bê-na-đê-ta thì lanh trai chắc chắn, như thể là đi giữa đàng cái [9] vậy, cho nên đến hang đá trước.

     Vừa đến nơi, Bê-na-đê-ta liền quỳ xuống chắp tay lần hột, và trông [10] vào hốc trên cửa hang đá. Bỗng chốc Bê-na-đê-ta reo to lên một tiếng, vì thấy sự sáng lạ lùng giãi ra...

Chú thích :

(48) lanh trai : tiếng cổ, nghĩa là nhanh nhẹn (lanh lẹ như kẻ trai tráng).




{21}

[1] nơi hốc, và nghe có tiếng gọi mình. Bà hiện ra đẹp đẽ tốt lành như hai lần trước, miệng thì mỉm cười, và [2] tay thì vời Bê-na-đê-ta lại. Cũng một lúc ấy, hai người kia mới đến hang đá, mà thấy Bê-na-đê- [3] ta đang quỳ, mặt mũi đổi sắc ra sáng sủa vui vẻ khác thường, thì hiểu ngay Bà đã hiện ra rồi. Bê-na-đê-ta thấy chúng bạn đã đến thì bảo rằng :

     - Này, Bà ở đây. Bà bảo tôi bước đến gần.

     Hai người kia bảo [5] Bê-na-đê-ta rằng :

     - Chị hỏi Bà có bằng lòng cho chúng tôi ở đây chăng ? Ví bằng không thì chúng tôi xin [6] ra.

     Bê-na-đê-ta trông lên hốc như hỏi Bà ấy, đoạn bảo rằng :

     - Bà bằng lòng.

     Bấy giờ hai người đàn bà [7] ấy quỳ xuống bên Bê-na-đê-ta, thắp nến phép, cùng bảo Bê-na-đê-ta rằng :

     - Bà vời chị lại gần, thì [8] chị hãy lại, cùng hỏi Bà là ai, hiện ra đây làm gì, có phải là linh hồn nơi lửa giải tội hiện về [9] xin làm lễ cho, thì xin Bà viết các điều ấy vào giấy cho chúng tôi được hay ; Bà muốn truyền việc gì, [10] thì chúng tôi sẵn lòng làm việc ấy.

     Bê-na-đê-ta cầm giấy bút đứng dậy đưa lên cho Bà ấy, nhưng...




{22}

[1] mà Bê-na-đê-ta càng bước lên gần Bà, thì Bà càng lui vào hốc. Đến cửa hang, Bê-na-đê-ta không [2] trông thấy Bà ấy nữa, liền vào hang trông lên, lại thấy Bà ở trong hốc trên đầu mình, tức thì rán (49) chân giơ [3] tay đưa giấy bút cho Bà. Hai người kia cũng theo vào hang, song Bê-na-đê-ta vẫy tay bảo ra, thì hai [4] người đàn bà liền ra. Bấy giờ Bê-na-đê-ta rằng :

     - Lạy Bà, Bà là ai, Bà truyền bảo sự gì thì xin [5] Bà viết vào tờ này.

     Bấy giờ Bà ấy mỉm cười cùng phán dạy rằng :

     - Việc Ta có ý truyền thì chẳng cần phải [6] viết làm gì. Ta chỉ muốn cho con hằng ngày lại đến đây cho đủ mười lăm ngày mà thôi.

     Bê-na-đê-ta [7] vâng ngay. Bấy giờ Bà ấy mỉm cười như thể là có ý tỏ ra Người bằng lòng, đoạn phán bảo Bê-na- [8] đê-ta rằng :

     - Có thế thì Ta hứa cho con sẽ được thanh nhàn vui vẻ, chẳng phải là ở đời này, bèn là [9] đời sau (50).

     Bê-na-đê-ta trở về cùng chúng bạn, bảo chúng bạn các điều Bà đã truyền dạy. Khi ở trong hang [10] mà ra, Bê-na-đê-ta vừa đi vừa trông xem Bà thì thấy Bà trông xem mình, đoạn lại trông xem người con...

Chú thích :

(49) một chữ "rán" khác, cũng là chữ thuần Nôm, được viết với bộ 𧾷 "túc" bên trái chỉ ý và chữ "đán" chỉ âm, tự dạng lại gần giống với chữ , âm H-V là "trớ" hoặc "trở", viết với bộ 𧾷 "túc" và chữ "thả") nghĩa hơi khác chữ "rán" ở trang 16 trên. Chữ "rán" ở trang 22 này có nghĩa gần với "rướn" hiện nay, tức là vươn ra, gắng đến.

(50) Theo thánh nữ Bê-na-đê-ta thuật lại, nguyên các lời Đức Mẹ nói với thánh nữ hôm ấy bằng tiếng địa phương của thánh nữ như sau : N'ey pas necessari (Tiếng Pháp hành chính : Ce n'est pas nécessaire = Không cần) ; Boulet aoue la gracia de bié aci penden quinze dias ? (= Voulez-vous avoir la grâce de venir ici pendant quinze jours ? = Con có bằng lòng đến đây trong mười lăm ngày không ?) ; Nous proumeti pas deb hé urousa en este mounde, mès en aoute (= Je ne vous promets pas de vous rendre heureuse en ce monde, mais en l'autre = Ta hứa cho con được hạnh phúc không ở đời này, nhưng ở đời sau).




{23}

[1] gái đồng trinh tên là An-tô-ni-a một lúc. Bê-na-đê-ta bảo An-tô-ni-a rằng :

     - Kìa, Bà đang [2] nhìn xem chị.

     An-tô-ni-a lấy điều ấy làm ai ủi mình lắm, và cho đến chết hằng nhớ cùng cám ơn [3] Đức Bà vì sự ấy liên.

     Hai người kia bảo Bê-na-đê-ta hỏi : Bà có bằng lòng cho tôi đến đây [4] với chị đủ mười lăm ngày chăng ? Bê-na-đê-ta trông lên Bà như thể là hỏi Bà, thì Bà bảo rằng :

     - Chẳng [5] những là hai người này, mà lại nhiều người khác cũng nên đến nữa, vì Ta muốn cho người ta đến đây cho đông.

     Đức Bà truyền bấy nhiêu điều đoạn liền biến đi, và dần dần sự sáng bao phủ chung quanh Người cũng tan đi nữa.

[7] ĐOẠN THỨ NĂM

[8] VỀ TIẾNG CÓ MỘT BÀ RẤT ĐẸP ĐẼ TỐT LÀNH HIỆN RA NƠI HANG ĐÁ MA-SA-BI-E ĐỒN RA KHẮP THÀNH LỘ- [9] ĐỨC VÀ CẢ MIỀN CHUNG QUANH, CÙNG VỀ SỰ ĐỨC BÀ HIỆN RA LẦN THỨ TƯ, THỨ NĂM, THỨ SÁU

[10] Khi Bê-na-đê-ta trở về nhà thì kể ra cho cha mẹ biết các việc đã xảy ra nơi hang đá sáng...



(Còn tiếp)