Vào
đầu tháng 8 năm 1999, cụ nhà tôi có cho
tôi xem một bài viết tựa đề “Dự báo khoa học về nguyên nhân và hậu quả của
cuộc nhật thực tháng 9-1999 tại Pháp”. Đó là một bản photocopy lại từ
một bản photocopy khác, mà bản photocopy khác này có lẽ cũng là bản
photocopy thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba trở đi, chứ chẳng phải được sao
chụp từ bản gốc, vì bản tôi được đọc dẫu vẫn còn khá rõ nét chữ, nhưng không
còn độ sắc sảo. Bài viết dài gần 4 trang đánh máy trên cỡ giấy A4, không đề tên
tác giả, nên tôi chẳng biết người viết là ai, nam hay nữ, ở đâu, làm gì...
Tuy
nhiên, sau khi đọc qua, tôi nghĩ ngay rằng tác giả của cái gọi là bản “Dự
báo khoa học…” (“dbkh”) nọ là một kẻ rất lơ mơ về các kiến thức khoa học
(KH), nhưng lại khoác lác về KH, mượn danh KH để dựng đứng lên những điều hoàn
toàn không có cơ sở KH, thậm chí còn phản KH. Để tăng sức nặng cho bản “dbkh”,
tác giả không những mượn danh KH, mà còn mượn danh của nhiều người khác, những
là “2.000 nhà khoa học lỗi lạc”, “tiếng tăm”, “đủ các ngành” như thiên
văn học, vật lý học… vân vân nào đó trên thế giới – nhưng đều là những nhà khoa
học “không hề có tên có tuổi” – , những là Liên Hiệp Quốc, thậm chí nại đến
công sức của cả “những máy vi tính hiện đại” để nhờ tất cả “làm chứng”
cho điều dối trá của mình.
Khi
đó tôi chỉ vắn tắt thưa lại cùng ông cụ tôi rằng : “Đây là chuyện bịa đặt, Ba đừng
tin, vì chẳng có căn cứ KH nào, còn muốn chắc chắn thì xin Ba cứ việc chờ đến
ngày giờ tác giả bài viết đã nêu ra”. Đến nay đã gần năm năm trôi qua, vẫn chẳng
hề xảy ra điều nào như cái “dbkh” nọ đã
“dự báo”, điều bịa đặt nọ đã rõ ràng là bịa đặt, thế nhưng hiện vẫn còn
không ít người cứ thích tin vào chuyện ly kỳ, dễ dàng để những kẻ như tác giả
kia mê hoặc. Vì thế có lẽ cũng cần phải chỉ ra các điều huyễn hoặc, khoác lác,
giả dối, sai lầm trong cái “dbkh” kia.
Sai
lầm đầu tiên của cái “dbkh” ấy khởi đầu ngay từ câu thứ hai : “Riêng trong
Thế kỷ XX từ năm 1001 đến năm 2.000 các cuộc Nhật nguyệt thực toàn phần…”
(nguyên văn – sic), và câu thứ ba : “… nhật thực toàn phần ngày 24/07/1995
là nhật thực lần thứ 355 của Công nguyên” (sic) !
Thôi
thì có thể thông cảm rằng 1901 đã bị đánh máy sai thành 1001,
cũng như lầm Thế kỷ thứ 20 thành ra Công nguyên (vốn là từ
ngữ rút gọn từ公 曆 紀 元 Công lịch kỉ nguyên, tiếng Pháp : Ère
commune, là chữ hiện nay dùng thay cho Anno Domini = Năm của Chúa,
chủ yếu là muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống con người, như cái gọi là “cuộc
cách mạng Pháp năm 1789” đã làm) mà châm chước. Nhưng tiếp sau đó là hàng loạt
các sai lầm không thể tha thứ.
Trước
hết, trong năm 1995 chả có cuộc Nhật thực – éclipse solaire, solar eclipse – hoặc
Nguyệt thực – éclipse lunaire, lunar eclipse – nào xảy ra vào ngày 24–7
cả. Năm ấy Nhật thực toàn phần chỉ xảy ra một lần vào ngày 24–10 mà thôi. Kế
đó, theo “Eclipse Predictions” của Fred Espenak, NASA’s GSFC (năm 2004),
trong thế kỷ thứ XX, nếu kể tất cả các thiên thực, tức là cả Nhật thực lẫn Nguyệt
thực, toàn phần – éclipse totale, total eclipse – lẫn một phần – éclipse
partielle, partial eclipse – (đối với Mặt Trăng còn có loại nguyệt thực bán
ảnh – éclipse pénombrale, penumbral eclipse – toàn phần và một phần, đó
là khi Mặt Trăng đi vào vùng bóng mờ – la pénombre de la Terre, Earth’s
penumbra – của Trái Đất sau Mặt Trời), thì có 458 lần gồm 228 Nhật thực và
230 Nguyệt thực, mà Nhật thực toàn phần ngày 24–10–1995 là thiên thực thứ 435 (tức
là Nhật thực 216 của thế kỷ XX), Nhật thực toàn phần ngày 11–8–1999 là thiên thực
thứ 452 (Nhật thực 224 của thế kỷ). Còn nếu chỉ kể các thiên thực toàn phần,
thì có tổng cộng 152 lần (71 Nhật thực và 81 Nguyệt thực), mà Nhật thực toàn phần
ngày 24–10–1995 là thiên thực toàn phần thứ 141 (Nhật thực toàn phần thứ 76 của
thế kỷ), Nhật thực toàn phần ngày 11–8–1999 là thiên thực toàn phần thứ 150 (Nhật
thực toàn phần cuối cùng, tức lần thứ 71, của thế kỷ).
Số
thứ tự Nhật thực tác giả “dbkh” dẫn ra đều sai be bét ! Có lẽ tác giả “dbkh” đã
dựa vào số thứ tự cho trong quyển “Lịch Thế Kỷ XX 1901–2000”. Nhưng các
Nhật Nguyệt thực trong quyển này lại dựa vào Bảng Nhật Nguyệt thực của
Oppolzer Th. V. (Canon der Finsternisse, Wien, 1887), và đã bỏ không
tính đến các Nguyệt thực bán ảnh (Éclipes Lunaires Pénombres, Penumbral
Lunar Eclipses), thí dụ đã bỏ qua các Nguyệt thực bán ảnh lúc 16 giờ 04
phút giờ quốc tế, tức 23:04 giờ VN ngày 8–10–1995, Nguyệt thực bán ảnh lúc
16:18 giờ Quốc tế tức 23:18 giờ VN ngày 31–1–1999. Nhưng dù thế, thì trong Lịch
Thế Kỷ XX cũng kể ra 375 thiên thực, mà Nhật thực ngày 24–10–1995 là thiên
thực 356, còn Nhật thực ngày 11–8–1999 là thiên thực 369, chứ không phải những
con số tác giả “dbkh” đã dẫn ra.
Tác
giả “dbkh” viết : “Từ năm 1582 (thế kỷ 16) đã xác lập 2 loại lịch chính thức
là Dương lịch và Âm lịch mà hiện nay chúng ta đang dùng” (sic).
Thật
ra Dương lịch (calendrier solair, solar calendar) là hệ thống tính thời
gian theo Mặt Trời – hay nói đúng hơn là căn cứ vào chu kỳ Trái Đất quay quanh
Mặt Trời – đã được nhiều dân tộc cổ, trong đó có người Rô-ma, lập ra. Lịch của
người Rô-ma bắt đầu tính năm thứ nhất là năm lập thành phố Rô-ma (nếu theo cách
tính lịch hiện nay thì là năm 753 trước Công nguyên, tức cách năm 2005 này đã
2758 năm). Theo lịch đó, mỗi năm chỉ có 304 ngày, chia ra 10 tháng, mà tháng đầu
năm là tháng Mars (tức là tháng Ba dương lịch hiện nay). Đến thời hoàng
đế Julius (năm 708 theo cổ lịch Rô-ma, tức là năm 45 trước Công nguyên) mới sửa
lại, căn cứ số đo thời gian khá chính xác một vòng Trái Đất quay quanh Mặt Trời
là 365 ngày thêm gần 6 giờ, ấn định rằng cứ sau 3 năm có độ dài 365 ngày mỗi
năm, thì đến năm thứ tư có độ dài 366 ngày gọi là năm nhuận. Nhưng độ dài chính
xác của vòng quay nói trên là 365 ngày 5 giờ 48 phút 45,97 giây, nên độ sai lệch
giữa thời gian thực và thời gian theo lịch mỗi năm một tăng (mỗi năm theo lịch
của Julius dài hơn năm thật vào khoảng 11 phút 14 giây).
Đến
năm 1582 (tức năm 2335 theo cổ lịch Rô-ma), thì kể từ năm 325, là năm Công đồng
Nicea xác định quy tắc tính Chúa Nhật Phục sinh, đã được 1257 năm, độ sai lệch
dồn lại, ngày tháng theo lịch chậm hơn ngày tháng theo chu kỳ quay của Trái Đất
quanh Mặt Trời lên tới 14120 phút 18 giây, tức là chậm lại so với thời gian thật
khoảng hơn 9,8 ngày ! Vì vậy, đức Giáo hoàng Gregorius XIII quyết định sửa lịch
một lần nữa, bằng cách bỏ đi 10 ngày của năm 1582 (sau ngày thứ Năm 4–10–1582
là ngày thứ Sáu 15–10–1582, không có các ngày 6, 7... cho đến ngày 14 trong
tháng 10 năm 1582 đó), lại cứ mỗi 400 năm phải bỏ đi 3 ngày để thời gian lịch
khớp với thời gian thật hơn. Vì thế, các năm tròn thế kỷ mà không chia hết cho
400, theo lịch cũ của Julius là năm nhuận, nay sẽ không nhuận nữa, chẳng hạn
các năm 1700, 1800, 1900, 2100, v.v…
Còn
Âm lịch – chính xác thì phải gọi là Âm-Dương lịch (calendrier luni-solair, lunisolar
calendar) – là hệ thống lịch pháp căn cứ theo chuyển động của Mặt Trăng
quay quanh Trái Đất, kết hợp với chuyển động của Trái Đất quay quanh Mặt Trời.
Lịch này phức tạp hơn Dương lịch rất nhiều, và đã được người Babylon cổ xưa sử
dụng nhưng còn thô sơ. Người Hi-lạp đã điều chỉnh lại để độ dài trung bình một
năm là 354 ngày, năm nhuận thêm hẳn một tháng, để chu kỳ năm tương đối khớp với
vòng quay của Trái Đất quanh Mặt Trời. Quy tắc tính lịch đã có từ lâu, chẳng phải
đợi đến năm 1582 mới được “xác lập” (sic), mà sự cải cách Dương lịch năm
1582 cũng chẳng ảnh hưởng gì đến hệ thống lịch này. Lịch của người Do-thái sử dụng
hơn 4000 năm qua là loại lịch này. Lịch để tính ngày Tết Nguyên đán cổ truyền của
Việt Nam, Trung Hoa cũng là loại lịch này. Tác giả “dbkh” vì quá giỏi khoa học,
nên lại mắc phải thêm một sai lầm.
Tác giả
“dbkh” còn viết : “Trong vũ trụ, hàng tỷ tỷ hành tinh hình thành những
chùm sao, những dải ngân hà vừa rộng vừa dài hàng trăm triệu km2 di
chuyển ngang dọc…” (sic).
Chỉ
trong một câu ngắn ngủi mà có đến ba điểm sai. Trước hết, tác giả lẫn lộn hai
khái niệm hết sức khác nhau là hành tinh (planète, planet) và sao
(étoile ; star). Trong hệ Mặt Trời (Le Système solaire, Solar
System) – còn gọi là Thái Dương hệ (đọc theo chữ Nho 太陽系 ) – thì Mặt Trời
là sao (hoặc hằng tinh, 恆星), mà Trái Đất chỉ
là 1 trong 10 hành tinh của Mặt Trời, còn Mặt Trăng là vệ tinh (satellite)
của Trái Đất. Tất nhiên ngoài Trái Đất ra, trong 8 hành tinh còn lại của Mặt Trời,
thì có 5 hành tinh đã được biết đến từ thời cổ, mà mắt thường cũng chỉ có thể
nhìn thấy 5 hành tinh này mà thôi, đó là : Thủy tinh (Mercure, Mercury),
Kim tinh (Vénus, Venus), Hỏa tinh (Mars), Thổ tinh (Saturne,
Saturn), và Mộc tinh (Jupiter). Các hành tinh khác được phát hiện
sau này không thể nhìn thấy nếu không có kính thiên văn. Thiên Vương tinh (Uranus)
phát hiện năm 1781, Hải Vương tinh (Neptune) được Le Verrier xác định vị
trí phải tìm và đã tìm được vào năm 1846. Mãi đến 13–3–1930, đài thiên văn
Lowell mới chính thức công bố sự hiện diện của Diêm Vương tinh (Pluton,
cách Mặt Trời khoảng 5,9 tỉ km), mà người ta đã nghĩ đó là hành tinh cuối cùng
của hệ Mặt Trời. Mới đây, vào tháng 3–2004, nhờ kính thiên văn Hubble đặt ngoài
không gian, người ta đã tìm thấy hành tinh thứ 10 của Thái Dương hệ, quay quanh
Mặt Trời một vòng hết khoảng 10.500 năm, được đặt tên là Sedna (chưa được
dịch ra tiếng Việt là hành tinh gì ; sau này được coi là một tiểu hành tinh
; đường kính trung bình gần 1000
km, cách Mặt Trời trung bình khoảng 76 tỉ km [cận nhật = 1.1423×1010
km, viễn nhật = 1.4×1011 km]). Lại có những hành tinh khác gọi là tiểu
hành tinh (planètes mineures, planétoïdes, astéroïdes ; minor planets, planetoids,
asteroids) hết sức bé nhỏ, cái lớn nhất có đường kính chỉ vào khoảng gần
900 km (tiểu hành tinh Ceres), còn thì chỉ từ vài trăm mét đến vài km.
Khi thuận tiện, người ta có thể quan sát được gần 50.000 tiểu hành tinh bằng
kính thiên văn, nhưng chỉ mới đặt tên được cho hơn 1600 cái.
Nhưng
chính các sao mới hình thành các chòm sao (constellations,
chứ không phải các chùm sao như tác giả “dbkh” bịa ra) cũng như
các thiên hà (hay ngân hà, galaxies). Sự thật là, khi con người quan sát
từ Trái Đất, đã gán ghép sao nọ với sao kia thành các chòm sao, chứ không phải các
sao thuộc một chòm nào đó phải có quan hệ đặc biệt với nhau hơn với các sao
khác chòm. Còn dải Ngân hà (la Voie lactée, the Milky Way) mà chỉ dài rộng
có “hàng trăm triệu km2” thôi, thì mỗi “ngôi sao” của
tác giả “dbkh” có đường kính chỉ khoảng 1 mm tức là bằng một hạt cát – ấy
là nếu chúng nằm san sát nhau đến nỗi không cựa quậy được, chứ thật ra
khoảng “hở” giữa chúng là rất lớn. Trước kia người ta đã coi sao alpha
Centauri là “mặt trời” khác Mặt Trời của chúng ta và gần Mặt Trời của chúng
ta nhất, vì nó cách Mặt Trời vào khoảng 41 triệu triệu
(41.000.000.000.000) km. Nhưng sau người ta thấy còn một sao gần hơn nữa, cũng
thuộc chòm Centaurus (Bán nhân mã), cách alpha Centauri khoảng 2o
về phía nam, và chưa tới 1o về phía đông, được gọi là Proxima
Centauri (Cận tinh của chòm Bán nhân mã Centaurus), cách Mặt Trời của
chúng ta “chỉ còn” hơn 38 triệu triệu (38.000.000.000.000) km.
Để dễ
hình dung, nếu coi khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời bằng 1 cm, thì khoảng
cách từ Mặt Trời đến Cận tinh “chỉ mới có khoảng” 3 km thôi ! Bây giờ để các “hành
tinh hình thành cái ngân hà có kích thước dài rộng vài trăm triệu km2”
của tác giả “dbkh”, thì khoảng cách 3 km ấy còn phải giảm đi 3 tỉ lần, nghĩa là
chỉ còn 1 mm, và hạt cát kia cũng giảm đi tương ứng 3 tỉ lần như thế mới đạt đến
“kích thước thật” của chúng trong cái “ngân hà” trong tưởng tượng của tác giả
“dbkh”. Bây giờ thì kích thước 1 con virus cũng bằng khoảng hơn 3 tỉ “hành
tinh” do tác giả “dbkh” đã tưởng tượng. Và toàn bộ cái “ngân hà” tưởng tượng ấy
cũng chỉ nằm lọt thỏm trong bề mặt Trái Đất thật, vì rằng diện tích Trái Đất là
những hơn 5 trăm triệu km2 !
Trong
thiên văn học, vì những kích thước là rất lớn, nên thay vì dùng các đơn vị
thông thường như km, người ta quy ước thêm ba đơn vị khác để đo các kích thước
: một là đơn vị thiên văn (đvtv, unité astronomique, astronomical
unit, là khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến Mặt Trời ~ 150.000.000 km)
; hai là năm ánh sáng (nas, année de lumière, light year, là
quãng đường ánh sáng đi được trong một năm với vận tốc là 300.000 km mỗi giây ~
9.500.000.000.000 km – 9 ngàn 5 trăm tỉ km) ; và ba là parsec (= parallaxe + seconde), nếu một thiên thể
nào đó có đường kính là một đvtv ở cách xa ta đến nỗi ta chỉ còn thấy nó
có độ lớn là 1” (giây) cung, thì khoảng cách từ ta đến thiên thể này là 1 parsec
~ 3,26 nas ~ 30.900.000.000.000 km – 30 ngàn 9 trăm tỉ km). Với những
đơn vị này, thì khoảng cách từ Mặt Trời đến sao alpha Centauri sẽ là khoảng
4,3 nas, đến Cận tinh khoảng 4 nas, đến mặt phẳng trung tâm của
Thiên hà ở phương bắc là vào khoảng 15 parsec tức là cỡ 50 nas ~
hơn 460.000.000.000.000 km – 460 triệu triệu km). Còn đường kính Thiên hà chứa
hệ Mặt Trời có đường kính vào khoảng 30.000 parsec (tức là khoảng hơn
100 triệu tỉ km, 100.000.000.000.000.000 km). Cho nên khi tác giả “dbkh” đưa ra
con số “hàng trăm triệu km2” thì những tưởng là đã lớn lắm rồi, ai dè
khi so với giá trị thật cũng chỉ như đem một con virus so với cả hệ Mặt
Trời !
Nào
đã hết, tác giả “dbkh” còn khẳng định một cách ghê rợn rằng : “cứ ba ngàn
năm bề mặt của quả địa cầu chúng ta bị tàn phá một lần bằng nhiều
hình thức như lần thì Đại hồng thủy, lần thì Băng hà, lần thì vỏ Trái Đất co
giãn … Mỗi lần như vậy là mỗi lần vạn vật trên mặt đất bị hủy diệt 70 – 80%”
(sic). Chưa vội nói đúng sai, nhưng có thể kết luận tác giả quả có đầu óc
khá... “hiếu sát”, nên đã tưởng tượng ra những điều kỳ quái nọ, còn lịch sử
nhân loại cũng như lịch sử Trái Đất đều phủ nhận hoàn toàn cái khẳng định hình
thành từ đầu óc bệnh hoạn của tác giả “dbkh”.
Thế
nhưng theo tác giả thì nguyên nhân của “sự tàn phá mỗi ba ngàn năm” kia là do “thỉnh
thoảng vài ngàn năm xảy ra một vụ va chạm giữa các hành tinh hoặc tự nó bùng nổ
tạo nên một sự chấn động lan ra khắp vũ trụ làm xáo trộn từ trường ảnh hưởng
tai hại đến các hành tinh khác mà trong đó hành tinh của chúng ta là một” (sic).
Nghe
thật ly kỳ ! Lại có vẻ đầy “tính khoa học” ! Cứ theo như ý cuối cùng trong câu
trích dẫn trên từ nguyên văn bài viết của tác giả, thì rõ ràng tác giả biết “hành
tinh của chúng ta” chính là Trái Đất. Thế mà tác giả lại bảo vũ trụ hình
thành từ những hành tinh, và những hành tinh có thể tự bùng nổ ! Cho đến nay,
ngoài các hành tinh của hệ Mặt Trời, người ta vẫn chưa thấy dấu vết gì của những
hành tinh khác trong vũ trụ, mặc dù về lý thuyết có thể là có, đơn giản chỉ vì
chúng quá nhỏ, lại chẳng tự phát ra ánh sáng, năng lượng. Như đã nói, ngay
trong hệ Mặt Trời, bằng mắt thường, người ta chỉ có thể thấy được 5 hành tinh.
Càng xa Mặt Trời các hành tinh càng lạnh : Hỏa tinh cách Mặt Trời mới có 228
triệu km, mà nhiệt độ trung bình ở bề mặt đã thấp vào khoảng âm 45oC
(= 45 độ dưới 0oC, tức âm 49oF), còn hành tinh thứ 10 Sedna
đã nói trên kia có nhiệt độ không hề vượt quá 202o dưới 0oC
(chỉ vào khoảng 25 đến 35 độ Kelvin, tức là âm 335.2oF), vì năng lượng
của Mặt Trời không còn đủ tỏa lan tới được nữa ! Còn lớn nhất trong các hành
tinh của hệ Mặt Trời là Mộc tinh, dù lớn hơn Trái Đất khoảng 1000 lần, nhưng vẫn
còn bé bằng 1 phần ngàn Mặt Trời. Đến lượt Mặt Trời cũng chẳng lấy gì làm lớn
so với các sao mà mắt thường có thể nhìn thấy trong bầu trời đêm, chẳng hạn sao
alpha Orionis (Betelgeuse) lớn gấp 24 triệu lần Mặt Trời, sao alpha
Scorpii (Antares) là một sao đôi, một ngôi lớn gấp 1000 lần, ngôi thứ hai gấp
100 triệu lần Mặt Trời…. Do đó, sự va chạm nếu có giữa hai hành tinh nào đó,
thì cũng chỉ có thể coi như sự va chạm giữa hai hạt bụi vô cùng bé nhỏ trên bãi
biển sao bao la của vũ trụ !
Tác
giả lại cho rằng hành tinh có thể tự bùng nổ (một “phát minh khoa học chấn động”
của tác giả “dbkh”) ! Lại còn “chấn động” của va chạm hay bùng nổ ấy “lan
ra khắp vũ trụ”, “tạo ra một sự xáo trộn quỹ đạo của các hành tinh làm cho
chúng di chuyển chậm lại hoặc dừng lại ở thế giằng co, trục của hành tinh chao
đảo, lắc lư” (sic) nữa kia ! Sự tưởng tượng hoàn toàn không căn cứ vào bất
kỳ cơ sở khoa học nào của tác giả “dbkh” mới phong phú làm sao !
Về
các thời kỳ băng hà (periodes glaciaires, glacial periods) trên Trái Đất,
thì chúng có chu kỳ vào khoảng 150 triệu năm, và mỗi lần kéo dài khoảng vài triệu
năm. Các kỳ băng hà lớn nhất đã xảy ra một lần cách nay 600 triệu năm, lần khác
cách nay 435 triệu năm, lần gần hơn nữa cách nay 300 triệu năm, và lần gần đây
nhất đã xảy ra cách nay khoảng 2,5 triệu năm, lúc bắt đầu kỷ Đệ tứ (période
quaternaire, Quaternary Period) thuộc đại Tân sinh (ère cénozoïque, Cenozoic
Era). Tuy nhiên, băng hà đã rút khỏi châu Âu và bắc châu Mỹ cách nay khoảng
10.000 năm. Khi băng tan, gây ra hiện tượng mực nước biển dâng cao trên toàn mặt
đất, có thể vào khoảng 30m đến 40m. Để xác định được các thời kỳ đó, các nhà KH
đã phải căn cứ vào các dấu vết còn lại trên các tầng địa chất của vỏ Trái Đất,
chứ không mơ hồ và cảm tính như tác giả “dbkh”.
Còn
hiện tượng gọi là “vỏ Trái Đất co giãn” nếu xảy ra cứ 3.000 năm mới có 1
lần thôi thì đỡ biết bao, chứ hoàn toàn chẳng có gì đáng lo ngại như tác giả
“dbkh” đã lo ngại ! Vì hậu quả trực tiếp của các hiện tượng này là các trận động
đất. Thế mà trung bình mỗi năm trên toàn Trái Đất có khoảng 50.000 trận động đất
cường độ từ 3 đến 4 độ Richter, khoảng 800 trận cường độ 5 đến 6 độ Richter, và
1 trận cường độ 8 đến 9 độ Richter (đơn vị cường độ địa chấn được đặt theo tên
nhà địa chấn học người Mỹ là Charles Francis Richter ; theo thang cường độ này,
thì một trận địa chấn 7 độ sẽ mạnh gấp 10 lần trận địa chấn 6 độ và mạnh gấp
100 lần trận địa chấn 5 độ…). Riêng nước Nhật chẳng hạn, mỗi năm có không ít
hơn 500 trận động đất lớn nhỏ ! Vì thế, chắc hẳn người dân Nhật sẽ mong mỏi cho
các “dự báo” của tác giả “dbkh” sớm thành sự thật với niềm hoan hỉ không cùng,
bởi lúc ấy có sớm lắm thì cũng phải mỗi 3.000 năm mới có một lần Trái Đất “cựa
mình”, mà mỗi cơn “cựa mình” ấy thì cũng phải có mức độ khác nhau, chưa chắc
khi nào cũng mạnh. Lại còn nơi xảy ra cũng phải chia đều cho toàn Trái Đất, chứ
đâu cứ tập trung trên đất Nhật !
Tác
giả “dbkh” lại viết một cách nhảm nhí rằng “khoa địa lý học từ xưa đã xác lập
(lại “xác lập” !) một mạng lưới gồm 34.200 tọa độ trên bề mặt
Trái Đất do 380 vĩ tuyến Nam Bắc và 360 kinh tuyến Đông Tây” (sic).
Thật là những tuyên bố “đầy ấn tượng và gây chấn động” ! Có lẽ cũng như trường
hợp đề cập đến ngay đầu bài viết này, cứ cho rằng tác giả đã lộn từ số 180 sang
số 380 (“vĩ tuyến Nam Bắc”), nên tạm thời thông cảm mà bỏ qua sự
sai sót đáng tiếc ấy, nhưng con số 34.200 thì quả thật không biết tác giả
lấy được từ đâu, phép tính nào dẫn đến nó, mà khoa “địa lý học” tác giả đề cập
tới là khoa “địa lý học” nào, có trường học nào trên thế giới này dạy chăng ? Nếu
tác giả cho rằng con số đó là giao điểm của các vĩ tuyến và kinh tuyến có số
đo tròn đến độ, – còn các số đo khác mà không tròn độ chắc không
được gọi là tọa độ, mà phải gọi là “tọa phút” hay “tọa giây”
! – thì số các giao điểm phải là 179 × 360 + 2 = 64442, vì 2 “vĩ tuyến” 90o
Bắc cũng như 90o Nam đều là các điểm : các điểm này lại là giao điểm
của tất cả mọi kinh tuyến, và là hai địa cực Bắc và Nam của Trái Đất, không phải
là những đường (“tuyến”) nữa, trong khi vĩ tuyến 0o là (đường) xích
đạo, là vĩ tuyến chung cho cả Bắc lẫn Nam bán cầu. Nhưng những giao điểm này
không cách đều nhau theo hướng Đông – Tây : càng về gần hai cực, khoảng cách
theo hướng Đông – Tây trên mỗi vĩ tuyến càng giảm (và đến cực là triệt tiêu),
nên nếu lấy mỗi điểm trong số chúng làm vị trí “để đặt ít nhất một giàn
phóng” những “hỏa tiễn cực mạnh mang đầu đạn hạt nhân” (sic) lên
không trung, thì khi nổ đồng loạt, rõ ràng những nơi càng gần cực sẽ chịu sức
công phá của chúng càng lớn !
Đối
với nhật thực toàn phần xảy ra ngày 21–2–1998 trông thấy được ở bắc châu Úc,
tác giả “dbkh” cho rằng : thời gian nhật thực kéo dài đến 1 phút 16 giây
là “một hiện tượng chưa từng thấy trong 2 ngàn năm nay và cả mấy ngàn năm
trước Công nguyên” (sic) ! Tác giả “dbkh” viết : “364 lần trước đây
[ý rằng là các Nhật thực xảy ra trong thế kỷ 20 trước Nhật thực ngày
21–2–1998 ; nhưng nói như tác giả, chẳng hoá ra từ khi bắt đầu có Trái Đất cho
đến bây giờ, chỉ mới có 365 lần Nhật thực thôi !] cũng diễn ra trong
hơn 50 giây chưa đầy 1 phút” (sic) ; và tác giả khăng khăng lặp lại
khẳng định này ở trang sau rằng : “Riêng về Nhật thực toàn phần, hiện tượng
này tạo nên vùng bị tối hoàn toàn từ lúc bắt đầu tối đến lúc sáng từ từ chỉ
diễn ra trong khoảng 60 giây” (sic) !
Thật
sự thì năm 1998 chả có Nhật thực hay Nguyệt thực nào xảy ra ngày 21–2 cả. Nhật
thực toàn phần duy nhất năm đó xảy ra lúc 17 giờ 28 phút ngày 26–2 (theo giờ Quốc
tế), tức 0 giờ 28 phút ngày 27–2 ở VN. Ngoài ra, trong một Nhật thực toàn phần (éclipse
totale de Soleil, total solar eclipse) quan sát được từ Trái Đất có tất cả
3 pha (phase – giai đoạn) : pha đầu, khi đĩa Mặt Trăng bắt đầu tiến vào
che đĩa Mặt Trời, ta sẽ nhìn thấy hiện tượng Nhật thực một phần (éclipse
partielle de Soleil, partial solar eclipse) ; kế đó, khi đĩa Mặt
Trăng bắt đầu che hoàn toàn đĩa Mặt Trời, đó là bắt đầu pha Nhật thực toàn phần
; pha sau cùng kể từ lúc đĩa Mặt Trời bắt đầu hé ra phía sau đĩa Mặt Trăng cho
đến khi đĩa Mặt Trăng hoàn toàn không còn che đĩa Mặt Trời nữa, cũng là pha Nhật
thực một phần. Ở những vùng gần xích đạo như Việt Nam, thời gian từ lúc bắt đầu
pha đầu cho đến khi kết thúc pha cuối của một Nhật thực toàn phần có thể dài
đến 3 giờ, riêng pha giữa có thể lâu đến 7 phút rưỡi (trong khi ở
các vĩ độ cao như Paris thì thời gian tối đa của pha này chỉ đạt đến 6 phút 10
giây). Nhật thực ngày 26 (27) –2–1998 trên chỉ riêng pha giữa cũng đã kéo dài đến
4 phút 9 giây chứ không phải 1 phút 16 giây như tác giả “dbkh” đã bịa đặt
(không biết căn cứ vào đâu). Có thể tính được gần đúng các khoảng thời gian này
bằng những phép tính số học tương đối không phức tạp lắm về toán chuyển động. Ở
đây không nêu các phép tính, nhưng nếu muốn, có thể tham khảo điều này trong Les
Éclipses của Paul Couderc, nhà xuất bản Presses Universitaires de
Paris, 1961, trang 46.
Tuy
thế, bấy nhiêu những sai lầm trên chưa ghê gớm rùng rợn bằng điều “tiên
đoán” dối trá bịa đặt được trích dẫn sau đây, phần chính yếu của “dbkh”.
Tác giả đã dùng tất cả những sai lầm đã phân tích ở trên chỉ để phục vụ cho việc
giải thích “một cách khoa học” điều “tiên đoán” ấy, mà tác
giả đặt phần giải thích dưới một tiêu đề nghe rất kêu mà chẳng có ý nghĩa gì,
là “Nguyên nhân lẫn trong hậu quả” (sic !). Tác giả rất khiêm tốn (!),
đã không nhận “vinh quang phát hiện” về phần mình (!), nhưng gán cho “một Hội
nghị gồm 2.000 nhà khoa học đủ các ngành trên toàn thế giới diễn ra tại Hà Lan
từ 20 đến 28/2/98 do LHQ tổ chức và bảo trợ” (sic). “Hội nghị” tưởng
tượng này đã “bàn luận khẩn trương sôi nổi ráo riết..., với những nỗi
lo âu” (sic), với sự giúp đỡ của “những máy vi tính hiện đại....
Tiên đoán... cuộc Nhật thực toàn phần tại Pháp sẽ là ngày 18/9/1999, tức là
có thể sẽ trễ 38 ngày và không chỉ thủ đô Paris mà toàn thể quả địa cầu sẽ bị
phủ trùm trong bóng tối 100% từ vài tiếng đồng hồ cho tới vài ngày chứ không phải
chỉ trong ít phút ! Hậu quả của hiện tượng này là Trái Đất sẽ hoàn toàn bị đóng
băng cùng với vạn vật trên mặt đất, trên Trái Đất bị mất ánh sáng và năng lượng
Mặt Trời từ 24 tiếng đồng hồ trở lên..., cuộc Nhật thực lần thứ 369 này
có thể hủy diệt tất cả sự sống trên quả địa cầu” (sic) !
Thật
là một viễn cảnh hết sức rùng rợn, bi thảm, kinh hoàng ! Tác giả “dbkh” dựng đứng
lên câu chuyện hoàn toàn bịa đặt rất vô căn cứ rằng vào “một ngày của
tháng 9 năm 1997” có một “vụ nổ lớn nhất trên 2000 năm nay trên bề mặt của
Mặt Trời ở phía hướng về Trái Đất, lửa bùng lên cao 100.000 km phát ra một tiếng
nổ khủng khiếp, sức chấn động tạo nên một biển sóng từ trường khổng lồ..., trong
điều kiện bình thường, biển sóng từ trường của Mặt Trời sẽ bắt đầu đi vào bầu
khí quyển của Trái Đất khoảng sau 18 tháng..., đến tháng thứ 24, tức là
tháng 9/1999, âm thanh của tiếng nổ sẽ tới tai của con người trên mặt đất. Hậu
quả là nhiều người và loài vật sẽ bị thủng màng nhĩ, điếc luôn” (sic) !
Sự
bùng nổ trên Mặt Trời không phải hiện tượng hiếm hoi gì. Người ta đã xác định
các bùng nổ là một hiện tượng tuần hoàn, được lặp lại với chu kỳ trung bình 11,3
năm, gọi là chu kỳ Mặt Trời 太陽週期 (cycle solaire, solar
cycles).
Tuy nhiên người ta cũng ghi nhận chu kỳ cực tiểu là 7 năm, cực đại là 17 năm,
cá biệt còn có siêu chu kỳ 33 năm. Trong một bùng nổ bình thường, năng lượng
phát ra tương đương vụ nổ của 10 triệu tỉ tấn thuốc nổ TNT (trinitrotoluène).
Các bùng nổ lớn đều kèm theo sự hình thành những luồng sáng phụt lên từ sắc cầu
(chromosphère, chromosphere) của Mặt Trời hướng ra phía ngoài, mà người
ta gọi là các tai lửa (protubérances, solar prominence ; 日珥), đôi khi cao đến
hàng trăm ngàn km. Khi bùng nổ mà Mặt Trời ở vào vị trí có tác động đến Trái Đất,
thì ảnh hưởng của nó có thể nhận thấy trong vài ngày. Tuy nhiên đó là những bức
xạ điện từ (gồm ánh sáng nhìn thấy, vô tuyến, tử ngoại và tia Roëntgen – ở
VN hiện nay quen gọi là “X quang” ! –) lan truyền với vận tốc ánh sáng, đến
Trái Đất sau khoảng 8 phút 20 giây. Tai lửa phóng ra dòng khí bị ion hóa
hết thảy gọi là plasma (còn dịch là điện tương 電漿) với tốc độ gần
1500 km/giây bay qua không gian trong vũ trụ. Khi “đám mây” plasma này đập
vào từ quyển Trái Đất (chỉ chừng 36 giờ sau bùng nổ, nếu, như đã nói, Mặt Trời ở
vào vị trí có tác động đến Trái Đất), nó làm chấn động toàn bộ từ trường Trái Đất
và gây nên bão từ (orage magnétique, magnetic storm). Đó là nguyên nhân
làm nhiễu loạn liên lạc vô tuyến sóng dài. Khoảng mấy ngày sau những “đám mây” plasma
bị khuếch tán hết, liên lạc vô tuyến ổn định trở lại.
Nhưng
không hề có tiếng động cùng với sóng âm thanh nào cả. Chắc tác giả không biết rằng
sóng âm thanh muốn truyền đi được phải có môi trường vật chất, như không khí,
nước, gỗ, sắt, thép, hay một vật chất nào đó, và truyền đi theo mọi phương
trong không gian. Thế nhưng trong vũ trụ, hay ở đây hãy cứ nói là giữa Trái Đất
và Mặt Trời, là một khoảng chân không (vacuité, vide ; vacuum) hầu
như tuyệt đối, vì nếu thử đi tìm trong một cái “hộp không gian” tưởng tượng, gần
Mặt Trời, có kích thước mỗi chiều là 1000 km, người ta chỉ có thể tìm thấy khoảng
3 grams vật chất (3 phần ngàn kilograms) mà thôi.
Mọi
âm thanh phát ra từ Mặt Trăng là thiên thể gần gũi Trái Đất nhất (có khoảng
cách trung bình đến Trái Đất là 384.400 km – chứ không phải 381.000 km như tác
giả bản “dbkh” đã viết) mà ở Trái Đất cũng còn không hề nghe thấy được, huống
chi từ Mặt Trời ! Chẳng hạn vào đầu tháng 2 năm 1971, trong thời gian tàu không
gian Apollo 14 thám hiểm, sau khi sử dụng xong tầng thứ 3 của hỏa tiễn Saturn
vào việc đưa phi thuyền Apollo tới quỹ đạo Mặt Trăng, người ta đã “thả” tầng đó
cho rơi xuống Mặt Trăng. Sức va chạm của nó vào Mặt Trăng mạnh tương đương 11 tấn
thuốc nổ TNT. Toàn bộ Mặt Trăng rung chuyển suốt 3 giờ đến độ sâu 35 – 40 km
trong lòng Mặt Trăng. Những chấn động này được nguyệt chấn kế (sismomètre
lunaire, lunar seismometer) do Apollo 12 để lại trong các chuyến thám hiểm
trước ghi nhận, và truyền về Trái Đất bằng vô tuyến, chứ ở Trái Đất chẳng hề
nghe thấy một âm thanh nào dù hết sức nhỏ bé từ Mặt Trăng.
Nay
giả sử cứ cho rằng giữa Trái Đất và Mặt Trời là một khối vật chất có mật độ xấp
xỉ dày như lớp không khí cách mặt Trái Đất từ 0 đến chừng 200 m (để âm thanh
truyền đi càng được nhanh), thì với vận tốc truyền âm trong không khí là 340 m
mỗi giây, tức khoảng hơn 1200 km mỗi giờ, thì để âm thanh đi được từ Mặt Trời đến
Trái Đất cần một thời gian “chỉ có” khoảng 440.000.000 giây, tức là hơn 5000
ngày, hay 13 năm 8 tháng “mà thôi” !
Thế
mà tác giả “dbkh” cho rằng chỉ cần 2 năm, người Địa Cầu đã nghe được tiếng phát
ra từ vầng Thái Dương, thì tốc độ của cái âm thanh ấy phải vào cỡ 88.000 km mỗi
giờ ! Như thế nghĩa là giữa Trái Đất và
Mặt Trời là một khối vật chất đậm đặc hơn cả chính Trái Đất, tức là có mật độ lớn
hơn Trái Đất cả hàng ngàn lần ! Nói cách khác, theo diễn giải của tác giả
“dbkh”, tuy Mặt Trời là một khối cầu lửa nóng bỏng – tác giả nói rõ là có nhiệt
độ bên ngoài lên tới 6000oC – vẫn mang theo một cái đuôi vô cùng cứng
rắn không hề chịu một tí ảnh hưởng gì của nhiệt, dài đến 150 triệu km, mà ở
chót đuôi là... Trái Đất ! Còn trong trường hợp khối vật chất nọ là... không
khí – cứ cho là thế để chiều ý tác giả “dbkh” – thì với khoảng cách về không
gian (gần 150 triệu km) và thời gian truyền âm như đã tính (13 năm 8 tháng), âm
thanh phát ra từ Mặt Trời mà đến được “cõi trần ai” này ắt cũng bị giảm nhỏ đi
cả trăm-triệu-tỉ-tỉ-tỉ lần, nghĩa là muốn nhận ra âm thanh đó cần phải có một
“tai nhân tạo” hết sức nhạy, sau đó khuếch đại âm thanh thu được qua cái “tai”
đó lên, bấy giờ may ra thì làm điếc tai những con virus mà thôi nếu như
chúng có tai, chứ còn nhân loại ai thính tai đến đâu cũng không cách gì nghe thấy
(có lẽ vì không thể nghe thấy “tiếng nổ” giả tưởng đó, nên tác giả “dbkh” mới
cho rằng nhân loại đã bị “điếc tai” hết thảy) !
Dù
sao, cùng với mức ổn định hiện có của Mặt Trời đã từ khoảng 4 tỉ năm nay, các
bùng nổ Mặt Trời, với các chu kỳ đã nói, là một hiện tượng rất đỗi thường
xuyên. Không hề có “sự chấn động và biển sóng từ Mặt Trời sẽ làm ra rối loạn
sự di chuyển cố hữu của Mặt Trăng, của Trái Đất và trục của chúng sẽ bị thay đổi”,
cũng không hề có chuyện Nhật thực toàn phần ngày 11–8–1999 “bị dời lại (!)”
đến 18–9–1999, “do hậu quả của vụ nổ
Mặt Trời mà ra” như tác giả “dbkh” viết. Hiện nay nhân loại đã sống
sang đến năm 2005 ; Nhật thực lần thứ 369 của thế kỷ 20 đã diễn ra hoàn toàn đúng
với các tính toán đã công bố từ trước, là ngày 11–8–1999, không hề là cái “ngày
đen tối 18–9–1999” như tác giả “dbkh” đã “tiên tri” ! Mọi đúng sai đã hoàn
toàn sáng tỏ, và mọi lời “tiên đoán” của tác giả “dbkh” đã rõ ràng là bịa
đặt.
Khi
tác giả “dbkh” viết : “các nhà khoa học tiếng tăm (nhưng lại không biết
là gồm những ai !) trên thế giới đã lý giải (“nguyên nhân” của hiện
tượng nhật thực “bị dời lại”) một cách cụ thể chứ không phải dựa vào
kinh sách của các tôn giáo” (sic), tác giả đã mượn một số hiện tượng KH có
thật, rồi thêm thắt, bịa đặt, vẽ rắn thêm chân, làm cho thật hư lẫn lộn, khiến
người đọc nếu không am tường KH sẽ nghĩ là thật, hoang mang, lo sợ.
Đến
cuối bài viết, tác giả đặt câu hỏi : “Có phải họ đang tiếp tay cho Tạo hóa để
giết nhân loại dần dần để sau này Tạo hóa đỡ nặng công hao sức chăng ?” (sic),
và trích dẫn thêm mấy câu Thánh Kinh, nhưng lại còn thêm thắt vào. Chẳng hạn
câu Mc 4:9 “Ai có tai để nghe, thì hãy nghe”. Câu này được
lặp lại trong Thánh Kinh y thế ở ba chỗ nữa : Mc 4:23, Lc
8:8, Lc 14:35, còn ở Mt 11:15, Mt
13:9, Mt 13:43 thì hơi khác : “Ai có tai, thì hãy nghe”.
Nhưng sau khi trích dẫn câu Mc 4:9, tác giả “dbkh” đã thêm vào đến
bốn câu với nội dung khác có cùng kiểu cấu trúc Có… để…, hãy… ! Rồi tác
giả sửa câu Mc 8:36 : “Được lời lãi cả thế gian, mà thiệt mất
sự sống mình, thì được ích gì !” thành ra : “Được lợi cả vũ trụ…”.
Có phải vì nhân loại đã sa đọa bằng cách “giết nhau để tranh giành quyền và
lợi” (sic) đến mức báo động, mà tác giả phải đứng ra gánh vác một
trách nhiệm hết sức to tát và nặng nề là cảnh tỉnh loài người chăng ?
Thật
ra, trách nhiệm to tát nặng nề đó cũng là trách nhiệm của từng người trên Trái
Đất, và mỗi người phải thể hiện trách nhiệm đó trong chính môi trường mình sống,
tùy theo vị trí của mình trong xã hội và ngay trong từng gia đình. Tuy nhiên chớ
nên để mục đích biện minh cho phương tiện, rồi “cảnh tỉnh thế gian” bằng những
điều đe dọa không có thật, vì làm như vậy quá ấu trĩ. Một khi “người bị đe dọa”
biết được rằng những đe dọa sẽ chẳng bao giờ xảy ra, thì sự cảnh tỉnh lập tức
không những trở nên mất tác dụng, mà có thể còn phản tác dụng. Chính Chúa Giêsu
đã dạy : “Có thì phải nói có, không thì phải nói không ; thêm thắt điều
gì là do ác quỷ” (Mt 5:37).
Ngoài
ra, Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa không những toàn năng, lại còn rất mực lân ái,
nhân từ, dù cũng công bình tuyệt đối. Thời Cựu Ước, trước khi được Chúa Giêsu mặc
khải về lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, người ta vẫn đọc thấy muôn vàn lời
tán tụng Thiên Chúa yêu thương trong Thánh Kinh. Tv 36:6,7 : “Lạy
Chúa, ơn của Chúa đạt đến trời cao,…, Chúa tế độ cho muôn người muôn vật. Quý
thay ơn huệ của Chúa, lạy Thiên Chúa ! Nơi bóng cánh tay Chúa, con cái loài người
nương ẩn”. Tv 65:10 : “Thiên Chúa viếng thăm cõi đất, cho
mưa gội nhuần, Chúa cho nó được phú túc cơ man,…, Chúa dọn sẵn cho muôn vàn
thóc lúa”. Tv 86:15 : “Lạy Chúa là Thiên Chúa trắc ẩn và từ bi,
khoan dung và giàu ân nghĩa sự thật”. Ngay cả khi con người phạm tội cùng
Thiên Chúa, thì Chúa cũng “đã cất tội vạ dân Chúa, Chúa đã vùi lấp lỗi lầm của
chúng. Chúa đã rút lại tất cả lôi đình, Chúa đã thu hồi lửa giận” (Tv
85:3,4)… Một đoạn Thánh Kinh trong sách Sáng Thế đã làm nổi bật lòng từ ái xót
thương của Thiên Chúa công bình : đoạn 18, các câu từ 20 đến 32. Khi Abraham
thưa cùng Chúa : “Xin Chúa tôi đừng nổi giận để cho tôi nói một lần này nữa
: Có lẽ tìm ra được ở đó mười người [lành trong thành Sôđôma] ?” Chúa
phán : “Ta sẽ không hủy diệt [cả
thành, bởi họ quá tội lỗi, sa đọa] vì
mười người ấy !”. Một đoạn văn hết
sức cảm động, cho thấy Thiên Chúa khoan dung biết bao. Thời Tân Ước, Chúa Giêsu
mặc khải về sự khoan dung nhân hậu của Thiên Chúa càng rõ ràng. Có thể đọc chẳng
hạn trong Lc 13:6-9, nhất là cả đoạn 15 của Tin Mừng Luca, cùng câu cuối của
đoạn này : “Nhưng phải ăn mừng, vì
em con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà lại tìm thấy” (Lc 15:32).
Mà thật thế, thử tưởng tượng một người
thợ làm ra được một số sản phẩm, rồi chốc chốc vì những lỗi nào đó, đem hủy hết
để sau đó lại làm những sản phẩm khác thay thế, và cứ luẩn quẩn trong “chu kỳ”
làm – hủy – làm – hủy mãi như vậy. Người thợ đó hẳn là hết sức điên rồ ! Đối với
Thiên Chúa, dù Chúa toàn năng, tạo dựng mọi sự từ hư không, nhưng hẳn Chúa cũng
chẳng hề nỡ nào mà cứ ba ngàn năm một lần lại giáng tai vạ để tiêu diệt muôn
loài Chúa đã dựng nên. Đừng đem lòng muốn cùng sự hiếu sát và tính khí thất thường
của ta đo lòng Thiên Chúa. Đừng bao giờ gán cho Thiên Chúa những “bản tính” ta
tự “chế” ra để chiều ý thích của ta.
Ngoài ra, có phải “toàn thể nhân loại”
đều sa đọa, tội lỗi cả đâu ? Và chắc chắn thế giới hiện nay không phải chỉ có một
Mẹ Têrêsa thành Calcutta, mà còn nhiều, rất nhiều con người đầy lòng nhân ái, trong sáng, sống công bình, tốt
lành, dám xả kỷ vị tha, ở khắp nơi này nơi nọ. Những con người ấy đã góp phần
làm cho thế giới được tốt đẹp hơn. Họ rất đáng được Thiên Chúa yêu thương, và
chắc chắn vì họ, Thiên Chúa cũng sẽ không nỡ hủy diệt thế giới như Chúa đã hứa
với tổ phụ Abraham thủa xưa.
BÙI NGỌC HIỂN