ĐÍNH CHÍNH BÀI
NÓI CHUYỆN
CỦA GS LÊ ĐÌNH
THÔNG
VỀ THÁNH
PHILIPPHÊ PHAN VĂN MINH
(30-3-2008 ─
Thư viện Gx Việt Nam Paris)
BÙI NGỌC HIỂN
Nhân đọc bài viết
nhan đề : “Thánh Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853) Nhà Thơ và Ngữ Học tiền
phong” của giáo sư Lê Đình Thông (Bài nói chuyện trong khuôn khổ Ngày
Văn Hóa và Sinh Nhật thứ XVIII Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Paris tổ chức ngày
30-3-2008), đăng trên trang mạng truyền thông của Giáo Xứ Việt Nam Paris
tại
http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/211-thanh-philipphe-phan-van-minh-1815-1853-nha-th0-va-ngu-hoc-tien-phong.html,
xin có vài ý kiến vụn vặt.
1.
Trong phần mở đầu, giáo sư Lê trình bày (sic ; dưới đây, chỗ nào trích
nguyên văn “Bài nói chuyện...” của giáo sư Lê, hoặc từ các tác giả khác, lề phải
cũng được lùi vào như đoạn sau) :
...
Trong Dictionarium anamitico-latinum (Tự
điển Việt-La tinh) xuất bản năm 1838 do Ngài biên soạn cùng với Đức Cha Taberd,
thánh nhân đã dẫn chứng bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu
để giải nghĩa ‘‘cách thức đặt thơ năm chữ’’. Bài ngũ ngôn như sau :
Xuân du phương thảo địa,
春 遊
芳 草
地,
Hạ thưởng lục hà trì.
夏 賞
綠 荷
池,
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
秋 飲
黃 菊 酒,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
冬 吟
白 雪
詩 .
Không biết trong
nguyên bản của giáo sư Lê viết sai hay bản chép lại viết sai ở câu thứ ba :
“hoàng hoa tửu” mặt chữ Nho là 黃花酒
,
không phải là 黃菊酒
(hoàng
cúc tửu), tuy hoàng hoa (= hoa vàng) vào
mùa thu trong bài thơ này đúng là hoa cúc, và “rượu hoa vàng” chính là rượu
chưng với nước nấu hoa cúc (cùng với sinh địa hoàng, đương quy).[1]
2.
Hai lần trong bài nói chuyện, giáo sư Lê khẳng định bài thơ “Xuân du phương
thảo địa...” là của Thôi Hiệu ( 崔顥
, cũng đọc Thôi Hạo). Nhưng bài này không phải của Thôi Hiệu, mà là của Uông Chu ( 汪洙
,
cũng đọc là Uông Thù), người được xưng tụng là “thần đồng”, trong tập Thần
đồng thi 神童詩 .[2]
Tập thơ này gồm 48
bài ngũ ngôn tứ tuyệt, mà bốn câu dẫn ra ở trên là bài cuối cùng, thường được gọi
là bài 四季 Tứ
quý
(= Bốn mùa ; cũng có thể gọi là 四時 Từ
thì).
Đề tài “bốn mùa” trong Thần đồng thi có hai bài, bài được dẫn ra trong Dictionarium
anamitico-latinum là bài四季 Tứ
quý
thứ hai. [3]
3.
Giáo sư Lê tiếp :
...
Thánh Minh trích dẫn ngũ ngôn. Bằng không, hẳn là thi nhân đã chọn bài Tứ Thời của Nguyễn Bỉnh
Khiêm :
Một mai, một cuốc, một cần câu,
...
Bài thơ “Một
mai một cuốc...” này vốn không có tên, trong bản Nôm Bạch Vân thi tập,
kí hiệu AB 30b của viện Viễn Đông Bác Cổ, được gọi là bài thứ 79. Như thế có lẽ
ban đầu Nguyễn Bỉnh Khiêm không đặt tên cho bài thơ của mình, nên sau này các
tác gia Việt Nam khi thu thập các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm để phổ biến,
đã dựa vào nội dung bài thơ mà đặt tên là Cảnh nhàn, Thơ nhàn... Tất
nhiên vẫn có thể đặt một cái tên khác, nhưng nếu muốn cái tên ấy diễn tả được rằng
bài thơ muốn nói đến điều gì, thì phải dựa vào nội dung của cả bài thơ. Chỉ dựa
vào mỗi hai câu luận của bài bát cú có bốn chữ thu, đông, xuân, hạ, mà đặt
cho bài thơ là “Tứ Thời”, thì thật là không ổn ! Đó chẳng qua đặt gượng
để – như lời giáo sư Lê – : “bằng không, hẳn là thi nhân đã chọn bài ... của
Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Cái “bằng không” đó là hoàn toàn võ đoán, hoàn
toàn = 0 !
Có thể xem :
và Dương Quảng Hàm đặt là Thơ nhàn trong Quốc văn
trích diễm, Hanoi, 1925
Theo bản chép tay Bạch Vân thi tập (chữ Nôm) của
Maurice M. Durand, chép lại từ bản kí hiệu AB 30b của viện Viễn Đông Bác
Cổ, thì bài thơ được đặt theo số thứ tự là bài Thất thập cửu (bài 79)
4.
Đoạn nói về “Thánh Phan Văn Minh, nhà điển ngữ”, “Giai đoạn phát triển”,
giáo sư Lê cho rằng :
...
Bài Vãn làm theo thể
lục bát phối hợp yêu vận của ta và cước vận của Tàu ... chứng tỏ tác giả
hằng tha thiết đến văn học nuớc nhà.
Đây là một nhận định
hoàn toàn sai lầm. Xưa nay chưa hề có ai bảo rằng cách gieo vần trong thơ lục
bát của thơ Ta lại là một sự “phối hợp yêu vận của
ta và cước vận của Tàu”. Thơ Ta là thơ Ta, thơ Tàu là thơ Tàu. Phán
đoán đúng duy nhất phải là :
Cách
gieo vần trong thơ lục bát (và song thất lục bát, hát nói...) vừa có cước vận
vừa có yêu vận. Cước vận (và yêu vận) trong (các) thể
thơ này là của riêng thơ Ta, chẳng hề phải mượn của ai, cũng chẳng cần phải phối
hợp với cái gì cả.
Nhận định như giáo
sư Lê, có lẽ cũng có thể nói được thơ Tây phương đều là phối
hợp cước vận của Tây với cước vận của Tàu ! [4]
5. Đoạn nói về “Thi pháp Phi-năng thi tập”, giáo sư
Lê dẫn lại bài “vãn Đội ơn Thiên Chúa ba Ngôi...” – mà giáo sư tự
đặt tên là “Vãn Thiên Chúa Ba Ngôi” – một lần nữa, với ít nhận xét :
... Nhà thơ lấy chất liệu trong Phúc âm dệt thành thơ lục bát, gần
gũi với ca dao.
...
Trong các kinh đọc vào các Chúa Nhật và các ngày lễ trọng
tại Việt Nam, có kinh Nghĩa Đức Tin. Đây có thể xem là bản tóm tắt Giáo
lí của Hội thánh Công giáo. Phần đầu của kinh cũng đề cập đến những điều
tương tự bài “vãn” được dẫn ra trong Dictionarium anamitico-latinum
:
...
chúng tôi hiệp nhau kính lạy thờ phụng Chúa, khong khen cám tạ ơn Chúa về mọi
ơn lành Chúa đã ban cho chúng tôi ... chúng tôi cả lòng tin vững vàng mọi điều
đạo thánh Chúa dạy, nhất là những điều cần kíp này, là có một Đức Chúa Trời
phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, mà Người có ba Ngôi...
Khi các giáo sĩ Tây phương đến truyền giáo tại Trung Hoa,
các ngài đã ra sức học ngôn ngữ, phong tục, văn hóa... của người Tàu, rồi soạn
các sách về giáo lí, về phụng vụ... bằng chữ Nho, để phổ biến trong dân chúng.
Một trong các tác phẩm đó là sách giáo lí có tên là 天主聖教四字經文 Thiên
Chúa thánh giáo tứ tự kinh văn,
không gieo vần, do giáo sĩ dòng Tên người Italia là Giulio Aleni soạn,
in năm 1642. [5]
Những câu đầu tiên của bản Tứ tự kinh văn này như
sau :
全能天主 萬有真原
toàn
năng thiên chúa, vạn hữu chân nguyên,
Chúa Trời toàn năng,
nguồn thật của mọi sự có
無始無終 常生常王
vô
thỉ vô chung, thường sinh thường vượng.
không có bắt đầu,
không có chót hết, hằng sống hằng trị
無所不在 無所不知
vô sở
bất tại, vô sở bất tri,
không chỗ nào
không có, không điều gì không biết
無所不能 萬物之始
vô sở
bất năng, vạn vật chi thỉ.
không sự gì
không làm được, là cội rễ của muôn vật
無形無聲 靈性妙用
vô
hình vô thanh, linh tính diệu dụng,
không hình không
tiếng, thiêng liêng diệu dụng
萬萬榮福 萬萬美善
vạn
vạn vinh phúc, vạn vạn mĩ thiện.
muôn muôn vinh
phúc, muôn muôn tốt đẹp
惟一至尊 無以加尚
duy
nhất chí tôn, vô dĩ gia thượng,
Đấng chí tôn duy
nhất, trổi vượt hơn tất cả
...
Ý tứ và chữ nghĩa của những câu này khá trùng hợp với bài
vãn dẫn ra trong Dictionarium anamitico-latinum của Taberd :
Đội ơn Chúa cả
ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật
cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thỉ
vô chung,
Thường sinh thường
vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức
toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Có lẽ bài này là một
bài diễn lại – hay cũng có thể xem như một bài phóng tác – bài Tứ tự kinh
văn của giáo sĩ Aleni bằng văn vần lục bát của thơ Ta để giáo dân Việt
Nam dễ thuộc, mà sáu câu lục bát này chỉ là phần mở đầu. Nhưng không có gì làm
chắc, vì bài vãn này (và những phần còn lại, nếu có) hiện không thể tìm
thấy ở đâu khác.
Sau này, một người
Việt khác, linh mục Petrus Lượng, đã soạn Thánh giáo yếu lý diễn ca,
từ đầu đến cuối cũng theo thể văn vần lục bát, in tại nhà in Mission,
Saigon, 1925.
Ít câu đầu tiên của
Thánh giáo yếu lý diễn ca :
Tôi tin kính Đức Chúa Trời,
Thiêng liêng sáng láng đời đời hiển vinh.
Chúa là trọn tốt trọn lành,
Vô cùng phép tắc hóa sinh đất trời.
Bởi không Chúa phán một lời,
Trời đất muôn vật tức thời có ra.
Ý Chúa sinh dựng nên là :
Trước danh Chúa sáng, sau ta đặng dùng.
Chúa là vô thỉ vô chung,
Một mình tự hữu ở cùng mọi nơi.
...
Có thể thấy được sự
tương đồng của những câu này với bài vãn trong Dictionarium
anamitico-latinum của Taberd và với những câu đầu tiên trong Tứ tự
kinh văn dẫn trên.
6.
Giáo sư Lê nhận định tiếp về bài vãn :
...
Sáu câu lục bát trên đây lời lẽ bình dị,
tuy có điểm xuyết một vài chữ Hán, nhưng là chữ Hán đã du nhập trong ngôn ngữ
nước ta như : vật ( 物 ), hưởng ( 享
) ; hoặc là các thành ngữ đối nhau : vô thủy vô chung ( 无
始 无
终 ) ≠ thường sinh thường vượng ( 常
生 常
旺 ).
...
Khi chua mặt chữ
Nho cho “các thành ngữ đối nhau ... thường sinh thường vượng”, giáo sư
Lê đã viết sai chữ Nho vượng là 旺 , trong khi chữ đúng phải là 王 .
Khang
Hi tự điển dẫn sách Hồng Vũ chính vận tóm tắt về chữ 王 này :
凡有天下者 , 人稱之曰王
, 則平聲 ; 據其身臨天下而言曰王
, 則去聲 phàm
hữu thiên hạ giả, nhân xưng chi viết vương, tắc bình thanh ; cứ kì thân lâm
thiên hạ nhi ngôn viết vượng, tắc khứ thanh = hễ có được
thiên hạ thì gọi là vương, thanh bằng ; tự mình cai trị thiên hạ thì gọi
là vượng, thanh trắc.
Tự điển Taberd, tiếc
thay, lại không có 王 vượng
; nhưng nhiều tự thư khác cắt nghĩa chữ Nho bằng chữ Quốc Ngữ vẫn có. Thí dụ :
Chữ 王 vượng
trong Tự điển Việt – Pháp, Génibrel, 1898 :
Chữ 王 vượng trong Đại Nam Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của, 1895 :
Chữ 王 vượng trong Hán Việt tự vựng toản yếu – Trần Học Tăng, 1933 :
Chữ 王 vượng trong Hán Việt tự điển – Thiều Chửu, 1942 :
Có thể xem phần dịch
sang tiếng Latin được in song song với câu thơ của bài vãn có “thường
sinh thường vượng” :
Omnĭpŏtēns sĭnĕ prīncĭpĭō sĭnĕ finĕ
mănēbīt
Đấng toàn năng, không bắt đầu, cứ mãi thế không
hết
Mōrte cărēns, scēptrō frēnat cūncta sŭō,
Không chết, nắm giữ vương trượng, hết thảy
là của Chúa
Rất rõ ràng, 王 vượng
chính là scēptrō frēnāre = nắm giữ vương trượng, vương việt, tức là “làm
vua” (động từ), không phải là fœtus (= nẩy nở ; hình dung từ)
như tđ Taberd đã dịch một chữ Nho khác cũng đọc là vượng : chữ 旺
vượng,
mà giáo sư Lê đã lầm lẫn.
Cả “vô thỉ vô
chung” và “thường sinh thường vượng” đều có trong Tứ tự kinh văn
như dẫn trên. “Thường sinh thường vượng” là dạng chữ Nho dùng để dịch “vivere
et regnare in sæcula sæculorum” trong tiếng Latin, xuất hiện trong
các kinh nguyện tiếng Hoa từ lâu. Cũng có khi thay bằng “ 恆生恆王
hằng
sinh hằng vượng”, hay “ 永生永王
vĩnh
sinh vĩnh vượng”, mà trong kinh nguyện tiếng Việt được dịch
rất hay, gọn, sát nghĩa, là “hằng sống hằng trị [đời đời chẳng cùng]”.
[6]
7.
Đến phần kết luận, giáo sư Lê thuật :
...
Trời đang nắng chói chang bỗng dịu mát [đây
là tưởng tượng của giáo sư Lê cho thêm phần... thi vị], quan giám sát [sic]
hô to : Tà đao [sic ; ?] cứ việc. Đầu thánh Minh rơi xuống. Bổn đạo rước
xác ngài về nhà thờ Cái Nhum an táng ngày 6-7-1853, thánh giá trên phần mộ khắc
ghi :
Linh Mục Phi Lý Bá Minh Tử Vì Đạo
靈 牧
丕 理
播 明
死 爲
道
Linh Mục Tử Vì Đạo : ý nghĩa đã sáng tỏ.
Nhưng tại sao lại là Phi Lý ?
Phi Lý là dịch âm : Philipphê.
Nhưng Phi Lý không phải là phi lý theo ý nghĩa thông thường :
Phi 丕
(bộ Nhất 一) có nghĩa là lớn lao
Lý 理
(bộ Ngọc 玉) có nghĩa là cái đạo tự
nhiên (Thiều Chửu)
Như vậy, từ ý nghĩa “không hợp lẽ phải”
(phi lý), Phi Lý trở thành đạo trời tự nhiên, cao cả.
...
Theo giải thích
này của giáo sư Lê, thì chữ 播 bá
để làm gì, có ý nghĩa gì, hay là chữ dư thừa ?
Xin trả lời : chữ bá
đó không hề thừa, và cả ba chữ Phi-lí-bá mới là Phi-lip-phê. Phi-lí-bá
là cách đọc theo âm Nho (còn gọi là âm Hán – Việt) của 斐理伯
trong
các sách Công giáo tiếng Hoa, xuất hiện ngay từ khi các thừa sai Âu châu đến
truyền giáo bên đông. Thí dụ quyển 天主聖教日課
Thiên
Chúa thánh giáo nhật khóa in lại năm 1715, Khang Hi 54, Ất Vị,
nhà in Toàn Năng Đường, Quảng Châu, như các hình dưới đây :
Trong quyển kinh
này, nơi kinh cầu các Thánh, có thể thấy tên các Thánh ở trang 84b :
khải
:
Thánh Đa-mặc
ứng
: Vị ngã đẳng kì (= cầu cho chúng tôi)
Thánh Nha-các-bá
v.v...
Vì đây là sách
kinh của người Hoa, nên tên các Thánh đó đương nhiên sẽ không đọc theo âm Nho,
mà phải theo âm Quan thoại (hay Quảng Đông / Phúc Kiến...), thí dụ :
多默
đa-mặc → duō-mò / Thomas (dạng Latin)
雅各伯
nha-các-bá
→ yā-gè-bó / Jacobus
斐理伯
phi-lí-bá
→ fēi-lǐ-bó / Philippus
巴爾多祿茂
ba-nhĩ-đa-lộc-mậu → bā-ěr-duō-lù-mào / Bartholomæus
瑪竇
mã-đậu → mǎ-dòu / Matthæus
西滿
tây-muộn → xī-mèn / Simon
達陡
đạt-đẩu → tà-dǒu / Thadæus
瑪弟亞
mã-đệ-a
→ mǎ-tì-yā / Matthia
So sánh với kinh
cầu các Thánh chữ Nôm trong Thánh Giáo kinh nguyện tại Việt Nam, in
lại theo bản in năm 1845 do giám mục Phê-rô Liêu [7]
san thuật truyền từ, quyển thứ hai, t. 16b :
(
翁圣 ông
thánh)
須眉 To-me
加姑陂 Gia-cô-bê
丕离批 Phi-li-phê
巴𫟌𦉼苖 Ba-tô-la-mêu
沫絩 Mát-thêu
槎蒙 Si-mong
些姚 Ta-đêu
沫施亜 Mát-thi-a
...
Vốn tâm lí người
Việt là “nhất Tầu nhì Ta”, chữ Nho vẫn “văn hoa nho nhã” hơn chữ Nôm vốn bị xem
là thứ “Nôm na mách qué”, nên “phi-lí-bá” nghe vẫn “hay” hơn “phi-li-phê”, mặc
dù “phi-li-phê” đâu có phải tiếng Nôm na gì, đó là phiên âm theo tiếng Bồ-đào-nha
hoặc Tây-ban-nha là Felipe. Tâm lí này tồn tại xuyên qua nhiều thời đại,
trong đó có thời của thánh Phil. PVMinh, cho mãi đến tận bây giờ. [8]
Tuy nhiên, dù tên
các Thánh được phiên theo âm Tầu hay âm Ta gì đi nữa, mà dùng chữ viết là chữ
Nho hay chữ Nôm, thì chữ dùng có thể là chữ (Nho / Nôm) bất kì nào cũng được,
miễn đọc ra âm giống hay gần giống âm gốc, còn cứ việc bỏ qua nghĩa chữ, nếu
nghĩa đó “trang nhã” thì càng tốt, mà không thì cũng chả sao. Do đó “phi-lí-bá”
sách kinh Tầu viết là 斐理伯 , nhưng người Việt lại
viết thành 丕理播 , còn nghĩa của phi
hay lí hay bá là gì cũng chả đáng kể. Cắt nghĩa chữ như giáo sư
Lê là một việc làm mang đầy cảm tính chủ quan.
Thế tại sao phải
“phi-lí-bá” mới là philippus / felipe, mà không phải là riêng
“phi-lí” thôi ?
Xin thưa : trong
sách kinh tiếng Hoa, còn có mấy ông thánh bà thánh nữa mà tên các vị cũng có
“phi-lí” đằng đầu, nên cần phải viết và đọc cho đủ kẻo lẫn lộn.
Các giáo sĩ dòng
Tên đã dịch các sách Phụng vụ sang chữ Nho (cho người Hoa Công giáo sử dụng),
như Mi-sa kinh điển 彌撒經典 , 1670 (bản dịch sách lễ
Rô-ma, Missale Romanum), Nhật khóa khái yếu 日課概要
, 1674 (Breviarium Romanum) như các hình dưới đây. [9] Ở đây dẫn vài tên các Thánh trong Mi-sa kinh điển.
Sách lễ Rô-ma (Missale Romanum) chữ Nho, 彌撒經典
Mi-sa
kinh điển, Bắc kinh, 1670
Trong Mi-sa
kinh điển, có ghi tên ít là :
2 ông thánh
Phi-lí-bá 斐理伯 fēi-lǐ-bó
Philippus (lễ : 1/5, 26/5) ;
5 ông thánh
Phi-lí-tư 斐理斯 fēi-lǐ- sī Felix
(14/1, 30/5, 12/7, 29/7, 30/8) ;
bà thánh
Phi-lí-tư-đại 斐理 fēi-lǐ-sī-tài Felicitas
(lễ : 7/3) ;
bà thánh Phi-lí-tế-đại 斐理細
fēi-lǐ-xì-tài
Felicitas (lễ : 23/11) ;
ông thánh Phi-lí-tế-a-nặc 斐理際亞諾
fēi-lǐ-jì-yā-nuò Felicianus (lễ : 9/6).
Ấy là còn chưa kể
ông thánh Phất-lí-tế-tế-mộ
弗理細細莫 fú-lǐ-xì-xì-mò
Felicissimus (lễ 6/8) !
Sách Nhật khóa Rô-ma (Breviarium Romanum) được
dịch ra chữ Nho : 日課概要 Nhật
khóa khái yếu, Bắc kinh, 1674
Nếu cứ đem cắt
nghĩa các tên Thánh chữ Nho (vốn là để cho người Hoa đọc) theo kiểu của giáo sư
Lê, thì :
Thánh Giu-se (réo
rắt ?) như đàn sắt : 若瑟 nhược-sắt
ruò-sè
Thánh Gio-an (sáng
?) như đêm rằm : 若望 nhược-vọng
ruò-wàng !
ÍT CHUYỆN BÊN LỀ
Một phần trong số những câu chuyện bên lề kể ra dưới đây tuy là chú thích cho bài viết trên, nhưng cũng kể được là những câu chuyện riêng rẽ.
[1].
Truyền thống Tầu thường uống “hoàng hoa tửu” vào ngày trùng cửu (ngày 9-9 âm lịch)
để được khỏe mạnh sống lâu. Thơ Vương Thập Bằng đời Tống, bài 九日寄昌齡弟
Cửu
nhật kí Xương Linh đệ (Ngày trùng cửu gửi em [là] Vương Xương
Linh) :
此日黃花酒
, 深期酌弟兄
Thử
nhật hoàng hoa tửu / Thâm kì chước đệ huynh
Nghĩa :
Rượu hoa vàng ngày
ấy / Rất mong được chén chú chén anh.
[2].
Uông Chu, tự 德温 Đức Ôn (không rõ sinh, mất
khi nào ; ? – ?), người huyện 鄞 Ngân (thuộc tỉnh Chiết
Giang bên Tàu), đậu tiến sĩ năm Nguyên Phù thứ ba (1100) đời Tống Hi tông, làm
quan đến Quan Văn điện đại học sĩ.
Từ nhỏ, họ Uông đã
nổi tiếng thần đồng. Chuyện kể : họ Uông nhà nghèo, cha là Uông Nguyên Cát chỉ
là một viên tiểu lại quèn làm việc tại huyện đường. Gia cảnh thường túng thiếu,
Uông Chu phải đi chăn vịt. Dù vậy, Uông Chu rất ham học, nên cứ lúc nào rảnh rỗi
là lúc ấy lại đọc sách, tập viết chữ... Một hôm, đang chăn vịt thì trời mưa to,
Uông lùa vịt vào miếu Khổng tử gần đấy trú tạm. Miếu này lâu ngày chẳng ai đến
thăm nom, mái sụt, vách mục, nền đầy cứt chim, bốn bề mạng nhện, tượng thánh sứt
mẻ. Uông nghĩ : “Cha mình thường bảo, văn quan vũ tướng triều đình đều là học
trò đức thánh Khổng. Huyện này cũng có các quan hưởng lương thụ lộc, thế mà chẳng
thấy ai ngó ngàng gì đến miếu thờ ngài.” Bèn nhặt một hòn than, viết lên vách
miếu :
顏回夜夜觀星像
, 夫子朝朝雨打頭 .
多少公卿從此出
, 何人肯把俸錢修 .
Nhan
Hồi dạ dạ quan tinh tướng,
Phu
tử triêu triêu vũ đả đầu.
Đa
thiểu công khanh tùng thử xuất,
Hà
nhân khẳng bả bổng tiền tu !
Nghĩa :
Nhan Hồi đêm đêm
dòm tướng sao,
Đức thầy sớm sớm
mưa vỡ đầu.
Công khanh nhiều
ít đây ra cả,
Bỏ tiền sang sửa
có ai đâu.
Đề thêm lạc khoản
bên cạnh :
九齡童汪洙
Cửu
linh đồng Uông Chu = Bé con Uông Chu chín tuổi.
Thầy Khổng với học
trò yêu Nhan Hồi dù ở trong miếu vẫn dòm thấy sao và bị mưa té tát vì nhà dột,
đến nỗi sứt trán mẻ đầu !
Ai dè mấy hôm sau,
viên huyện lệnh dẫn đầu một đoàn các cử nhân, tú tài trong huyện đến Khổng miếu
để... tham bái. Thấy tình trạng miếu như thế ai cũng thẹn thùng. Đến khi huyện
lệnh đọc được bài thơ của Uông Chu, thì vừa xấu hổ, vừa giận ; rồi lại nghĩ :
“Một đứa bé chín tuổi sao có thể làm được bài thơ này. Hay có kẻ nào thích nhạo
báng nhưng muốn giả thác là con nít chăng ?” Bèn truyền cho sai dịch đi tìm đứa
trẻ chín tuổi tên Uông Chu đem đến tức khắc.
Uông Nguyên Cát lật
đật chạy ra quỳ bẩm :
─ Bẩm quan, Uông
Chu là con tôi, nó đang chăn vịt. Tôi xin dẫn nó đến hầu quan lớn ngay.
Hai cha con đến.
Huyện lệnh thấy thằng bé tuy nhem nhuốc nhưng mặt mũi có vẻ thông minh lanh lợi,
tra hỏi thì thằng bé trả lời rất hoạt bát, và nhận chính là mình làm bài thơ
đó. Quan trong bụng lấy làm vui, thuận miệng bảo :
─ Nếu đúng cháu
làm bài thơ này thì cháu là thần đồng rồi !
Vẫn còn hoài nghi
; nhân thấy Uông Chu đang mặc chiếc áo ngắn cũn cỡn bèn diễu cợt nói tiếp :
─ Có điều thần đồng
áo cộc. Ta chưa thấy thần đồng nào xỏ chiếc áo như vậy !
Uông Chu ứng khẩu
trả lời bằng một bài ngũ ngôn :
神童衫子短,袖大惹春風。
未去朝天子,先來謁相公。
Thần
đồng sam tử đoản / Tụ đại nhạ xuân phong.
Vị
khứ triều thiên tử / Tiên lai yết tướng công.
Nghĩa :
Thần đồng áo ngắn
mỏng / Tay áo rộng đón gió xuân.
Chưa đi chầu thiên
tử được / Hãy lại yết kiến quan tể trước.
Huyện lệnh thấy
Uông Chu làm thơ đã nhanh mà lại có khẩu khí, hai câu 3 – 4 đối nhau rất mực (vị
khứ – tiên lai ; triều – yết ; thiên tử – tướng công ; cả cặp khứ – lai
và tử – công tách riêng), lấy làm vui lắm, khen ngợi và ban thưởng cho
Uông Chu, đồng thời ra lệnh tu bổ lại Khổng miếu.
Uông Chu được gọi
là thần đồng từ đó.
[3].
Bài thứ nhất thuộc đề tài “Bốn mùa” trong Thần đồng thi của Uông Chu
nguyên văn là :
春水滿泗澤
, 夏雲多奇峯 . 秋月揚明輝
, 冬嶺秀孤松
Xuân
thủy mãn Tứ trạch / Hạ vân đa kì phong.
Thu
nguyệt dương minh huy / Đông lĩnh tú cô tùng.
Nghĩa :
Xuân, nước ngập chằm
Tứ / Hạ, đầy mây trên ngọn núi lạ lùng.
Thu, trăng tỏa rạng
rỡ / Đông, cây thông đẹp lẻ loi trên núi.
Cùng với Tam tự
kinh, tập Thần đồng thi này được phổ biến rất rộng rãi để dạy học
trò học chữ Nho, không ai không biết. Bài đầu tiên trong tập thơ được Ngô Tất Tố
dẫn ra trong tác phẩm Lều chõng của ông. Bài đó như sau :
天子重英豪
, 文章教爾曹 .
萬般皆下品
, 惟有讀書高 .
Thiên
tử trọng anh hào / Văn chương giáo nhĩ tào.
Vạn
ban giai hạ phẩm / Duy ngã độc thư cao.
Nghĩa :
Nhà vua trọng kẻ
tài giỏi / (Lấy) văn chương dạy bọn bay.
Muôn bậc đều là phẩm
dưới / Chỉ có hạng đọc sách là ở trên cao.
Trong Lều chõng,
hai chữ “anh hào” được thay bằng “hiền hào” (không có mặt chữ
Nho).
Bài Thần đồng
sam tử đoản được xếp vị trí số 10 trong tập thơ.
Một bài khác vẫn
trong Thần đồng thi cũng hết sức quen thuộc, bài số 20 :
久旱逢甘雨,他鄉遇故知;洞房花燭夜,金榜掛名時
Cửu
hạn phùng cam vũ / Tha hương ngộ cố tri.
Động
phòng hoa chúc dạ / Kim bảng quải danh thì.
Nghĩa :
Hạn lâu gặp mưa ngọt
/ Quê người gặp kẻ quen biết cũ.
Đêm động phòng hoa
chúc / Lúc bảng vàng treo tên.
Dị bản : 掛
quải (=
treo lên) thay bằng 題 đề
(= nêu lên).
Câu Cửu hạn
phùng cam vũ này có gặp thấy trong Sách Kinh nguyện, Quinhon, 1925,
Đệ thất thiên – Đồng niên tổng kinh văn, II – Ca hát trong mùa Chay, kinh số 8
– Lễ thánh thủy – Phục sinh tiết đến (hình bên phải, dòng thứ bốn từ dưới
đếm lên) :
[4].
Khi Giáo sư Lê phát biểu : “... bài vãn làm theo thể lục bát phối hợp yêu vận
của ta và cước vận của Tàu...”, mặc nhiên giáo sư hiểu rằng : “chỉ có thơ
Tàu mới có cước vận, còn thơ Ta thì chỉ có yêu vận và không có cước vận”,
và rằng : “muốn cho một bài thơ Ta có cả cước vận lẫn yêu vận thì phải ‘phối
hợp’ cách gieo vần cuối câu của thơ Tàu với cách gieo vần ở lưng chừng câu
của thơ Ta” !
Hiểu như thế chả
khác gì cái món “cước vận” này hóa ra một thứ “đặc sản” của Tàu ; người nói
ngôn ngữ nào mặc lòng, hễ làm thơ mà xài đến cước vận, thì hoặc là bắt chước
thơ Tàu, hoặc phải “phối hợp cách sao đó với cước vận theo kiểu thơ Tàu mới
thành thơ của ngôn ngữ ấy”.
Thơ Tây chỉ gieo
toàn cước vận. Thí dụ bài thơ In the Rose Garden của John Bennett và bài
thơ dịch sang Việt ngữ, Trong vườn hồng, của thi sĩ Nam-Chi Lê-Hữu-Phụng
đều gieo cước vận :
A hundred years
from now, dear heart, We shall not
care at all, It will not
matter then a whit, The honey or the
gall. The summer days
that we have known Will all
forgotten be and flown ; The garden will
be overgrown Where now the
roses fall.
|
Em ơi, trăm năm
nữa, Ta chẳng còn lo chi
; Ngọt bùi hay tân
khổ, Rồi ra có nghĩa gì. Ngày hè ta đã sống, Sẽ chìm trong
lãng quên ; Vườn hồng muôn
cánh rũ, Rồi cỏ mọc rêu in.
|
Các thánh thi Công giáo cũng toàn các bài thơ gieo cước vận. Thí dụ :
Bài O filii :
O filii et filiæ Rex cælestis,
Rex gloriæ Morte surrexit
hodie. Alleluia. |
Hỡi các nam nữ tử Vua thiên đàng,
Vua vinh hiển Đã chết hôm nay sống
lại ... |
Bài Pange lingua :
Tantum ergo
sacraméntum Venerémur cérnui
: Et antíquum documéntum Novo cedat rítui
: Præstet fides
suppleméntum Sénsuum deféctui. |
Nên (trước) Mầu
nhiệm cao cả như thế ta hãy phủ phục
tôn thờ và giao ước cũ nhường cho nghi
lễ mới ta hãy dùng đức
tin bổ túc sự khiếm khuyết
của giác quan |
Bài Stabat Mater :
Stabat Mater
dolorósa Juxta Crucem
lacrimósa, Dum pendébat
Fílius. |
Mẹ đứng đau đớn rơi lệ ngay bên
Thánh giá Con còn đang
treo đó |
Qua các bài thơ
trên có thể thấy : Thơ Tàu có cước vận, thì thơ Tây cũng có cước vận. Chả anh
nào phải phối hợp với anh nào ! Mà thơ Ta cũng thế, các thể thơ của Ta,
như lục bát, song thất lục bát, hát nói... đều có cước vận. Cước vận trong thơ
Ta còn có đặc sắc này mà không hề thấy trong thơ Tàu :
Vần gieo ở chữ
chót câu trên (tức là cước vận), có thể ăn vần với chữ chót câu dưới (tức cũng
là cước vận), nhưng lại cũng có thể ăn vần với một chữ ở lưng chưng câu dưới (tức
là yêu vận). Vài thí dụ :
–
Thơ lục bát :
Ba bà đi bán lợn sề, Bán đi chẳng được
chạy về lon ton. Ba bà đi bán lợn con, Bán đi chẳng được
lon ton chạy về. |
sề : cước vận, ăn
xuống về ở câu dưới về : yêu vận ; sau
đó đổi vần : ton, ăn xuống con con : cước vận, ăn
xuống ton ton : yêu vận |
Ca
dao
–
Song thất lục bát :
Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy, Sớm đã trông nào thấy hơi tăm. Ngập ngừng lá rụng cành trâm, Chiều hôm nghe dậy
tiếng cầm lao xao. Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ, Chiều lại tìm nào có tiêu hao. Ngập ngừng gió thổi áo bào, Bãi hôm tuôn dẫy
nước trào mênh mông. |
ấy : cước vận, ăn
xuống thấy thấy : yêu vận ; sau
đó đổi vần : tăm, ăn xuống trâm trâm : cước vận, ăn
xuống cầm cầm : yêu vận ; sau
đó đổi vần : xao, ăn xuống nao nao : yêu vận ; sau
đó đổi vần : nọ, ăn xuống có có : yêu vận ; sau
đó đổi vần : hao, ăn xuống bào bào : cước vận, ăn
xuống trào, yêu vận
|
Chinh
phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm
–
Hát nói :
Thấy phỗng đá lạ
lùng muốn hỏi : Cớ làm sao len lỏi
đến chi đây ? Hay tưởng trông
cây cỏ nước non này, Chí cũng rắp dan
tay vào hội Lạc ? ... |
hỏi : cước vận, ăn
xuống lỏi lỏi : yêu vận ; sau
đó đổi vần : đây, ăn xuống này này : cước vận, ăn
xuống tay, yêu vận
|
Ông
phỗng đá, Nguyễn Khuyến
Vậy mà nói thể thơ
lục bát (và các thể thơ khác của Ta) là “phối hợp yêu vận của ta và cước vận
của Tàu”, thì không biết cái sự gọi là “phối hợp” đó nó ra làm sao ?
[5].
Thể văn viết thành từng câu mỗi câu 4 chữ (tứ tự) là thể văn phổ biến cả
ở Tàu lẫn ở Ta. Nổi tiếng nhất là bài 千字文
Thiên
tự văn, gồm đúng 250 câu × 4 chữ không trùng lặp, lại
có gieo vần (cước vận, dĩ nhiên) do 周興嗣
Chu Hưng Tự làm vào đời Lương Vũ đế bên Tàu. Ngoài bài này còn hai bài khác
cùng được gọi là 四字經 Tứ
tự kinh : một của thiền sư Đức Hạnh 德行禪師
đời
Đường, một của Tiêu Lương Hữu 肖良友 đời
Minh. Tứ tự kinh của thiền sư Đức Hạnh có 597 câu 4 chữ, phổ biến rất rộng
rãi, nhiều câu từ tác phẩm này trở thành những thành ngữ quen thuộc (gọi là 四字成語
tứ
tự thành ngữ) ngay cả với người Việt, thí dụ : 坐井觀天
tọa
tỉnh quan thiên (= ngồi dưới giếng dòm trời), 點石成金
điểm
thạch thành kim (= chạm đá thành vàng) 守株待兔
thủ
chu đãi thỏ (= ôm cây đợi thỏ)...
Năm 1613, một giáo
sĩ dòng Tên người Italia, tên là Giulio Aleni (1582 – 1649) sang Trung Hoa truyền
giáo. Tại đây ngài đã học thông thạo chữ Nho, tiếng Quan thoại, lấy tên chữ Nho
và đặt theo thứ tự bên đông là họ trước, tên sau, thành 艾
儒略 ,
âm Quan thoại là ài rú-lüè (âm Nho : Ngải Nhu-lược) ; lại cũng chọn cho
mình một tên tự là 思及 Tư
Cập
(nghĩa đen : kịp nghĩ đến). Ngài dùng thể văn tứ tự, soạn ra một kinh
văn gồm 662 câu 4 chữ, đặt tên là 天主聖教四字經文 Thiên
Chúa thánh giáo tứ tự kinh văn (không gieo vần), in năm
1642 (xem hình).
Hình trên : Thiên Chúa thánh giáo tứ tự kinh
văn
(bản in lại, không rõ năm), với 5 dòng đầu tiên, trang 1a. Hình dưới :
trang đầu Thiên Chúa thánh giáo tứ tự kinh văn, bản in lại năm 1856 ;
dòng đầu tiên ngoài cùng bên phải : Thiên Chúa giáng sinh nhất thiên lục
bách tứ thập nhị niên (năm 1642), thái tây học sĩ Ngải Nhu-lược cẩn thuật
Ở Việt Nam cũng có
nhiều kinh nguyện Công giáo đặt theo thể từng câu 4 chữ, cả lối có gieo vần lẫn
lối không gieo vần, cả ở các địa phận Đàng Ngoài, cả ở các địa phận Đàng Trong.
Dưới đây dẫn lại đôi kinh mà nay có lẽ không còn được đọc, không mấy người nhớ,
chỉ là coi như tài liệu tham khảo.
Kinh cầu hồn (phổ biến ở Đàng Ngoài ; với ghi chú sau :
Kinh
này không đọc khi đang làm lễ và khi chầu Mình Thánh trọng thể, có thầy cả làm
chính sự).
1. Lạy Chúa tôi
ôi, Chúa đã phán lời
: “Tao là Chúa cả, Mọi sự mọi loài, 5. Kẻ sống ở đời, Lại cùng kẻ chết.” Chúng tôi đã biết
: Cha mẹ chúng
tôi, Với lại những
người, 10. Họ hàng con
cháu, Ông bà ruột máu, Tình nghĩa vợ
con ; Cha mẹ phần hồn, Ân tình phần
xác, 15. Rầy đương
khoải khắc, Trong lửa công bằng, Đêm ngày trông
mong, Chúng tôi còn sống, Đền thay cho
chóng, 20. Khỏi chốn
luyện hình. Chúng tôi trong
mình, Đầy những tội lỗi, Mở miệng hôi thối, Chẳng đáng Chúa
nghe. 25. Một trông cậy
vì, Lời xưa Chúa
phán, Rằng : “Tao
không muốn, Phạt hơn là
thương”. Lạy Chúa thiên
đường, 30. Ban ơn tha
thứ. Xin Chúa đừng nhớ, Tội kẻ chết chi, Xin Chúa quên
đi, Chúa đừng chấp nữa. 35. Xin Chúa hãy
gỡ, Những hồn ấy ra. |
Máu Thánh còn dư, Thừa nguyên bảy
giọt, Xin Chúa hãy rót, 40. Tắt lửa công
bằng, Đương cháy bầng
bầng, Đốt hồn cha mẹ, Cùng hồn những kẻ, Tình nghĩa chúng
tôi. 45. Lạy Chúa tôi
ôi, Cha mẹ chúng
tôi, Những kẻ đã chết, Bấy giờ mới biết, Sức lửa công bằng, 50. Hừng hực nấu
nung, Trong ngoài thấu
suốt, Hằng giây hằng
phút, Ngong ngóng
trông mong. Lạy Chúa khoan
dung, 55. Xin mưa Máu
xuống. Hồn nào còn vướng, Mắc dấu vết gì, Chúng tôi xin
vì, Công nghiệp Máu
Chúa, 60. Sẽ gột sẽ rửa, Cho sạch phen
này. Xin Chúa ra tay, Nhân từ cứu vớt
: Chúng tôi kẻ chết, 65. Ai nấy được
nhờ. Xin Chúa hãy
mưa, Hãy rưới Máu
Chúa, Cho được tắt lửa, Hình phạt ngũ
quan. 70. Lạy Mẹ cực
khoan, Mẹ kêu giúp đỡ. Xin Mẹ đừng nỡ, |
Ngảnh mặt làm
thinh. Mẹ đỡ Mẹ bênh, 75. Mẹ nài cùng
Chúa : Các hồn cũng có, Vào sổ làm con. Cậy Mẹ phần hồn, Nhờ Mẹ lúc chết, 80. Đêm ngày kêu
thét, Trông mẹ, Mẹ ôi. Các hồn nằm vùi, Giẫy trong đống
lửa, Ngậm ngùi nức nở, 85. Khóc lóc
than van. Xin Mẹ đừng
quên, Các hồn ấy Mẹ. Chúng tôi là kẻ, Con cháu họ
hàng, 90. Suy đến giật
mình, Lòng thương bổi
hổi. Song vì một nỗi, Tội lỗi nhớp
nhơ. Chúng tôi xin nhờ, 95. Công nghiệp
Máu Chúa. Lại trông rằng
có, Đức Mẹ chở che. Mẹ đừng ngảnh
đi, Mẹ cứu lấy với. 100. Xin Mẹ hãy
lấy, Công Mẹ trong
kho, Mẹ đền bù cho, Các hồn chóng rỗi. Chúng tôi mê tối, 105. Tội lỗi Mẹ
ôi, Trong lòng ngậm
ngùi, Một hai trông Mẹ. A-men. |
Kinh cầu Đức Bà trọng thể (ở các địa phận Đàng Trong)
Xin Chúa thương
xót chúng tôi. Xin Chúa Khi-tô
thương xót chúng tôi. Xin Chúa thương
xót chúng tôi. Chúa Khi-tô nghe
cho chúng tôi. Chúa Khi-tô nhậm
lời chúng tôi. Mầng thay mầng
thảy / Mầng thay là mầng. 1. Mầng Đức Chúa
Cha / Ngự trên thiên quốc, Cai thần, trị vật.
Thương xót chúng tôi. 2. Mầng Đức Chúa
Con / Chuộc tội cứu thế, Nhọc nhằn thân
thể. Thương xót chúng tôi. 3. Mầng Chúa
Thánh Thần / Tính linh diệu dụng, Hằng ban thất sủng.
Thương xót chúng tôi. 4. Mầng Đức Chúa
Trời / Ba Ngôi một Chúa, Vô cùng phép tắc.
Thương xót chúng tôi. 5. Mầng Đức Bà
Ma-ri-a Thánh Mẫu, Chánh danh là Hậu.
Bàu chữa chúng tôi. 6. Mầng kính Đức
Bà / Mẫu từ Chúa cả, Gồm no phước lạ.
Bàu chữa chúng tôi. 7. Mầng kính Đức
Bà / Trổi xa thế sự, Trinh đồng liệt
nữ. Bàu chữa chúng tôi. 8. Mầng kính Đức
Bà / Chúa tôi yêu dấu, Khi-tô Thánh Mẫu.
Bàu chữa chúng tôi. 9. Mầng kính Đức
Bà / Ba Ngôi ban hứa, Đầy ơn chan chứa.
Bàu chữa chúng tôi. 10. Mầng kính Đức
Bà / Trong đời có một, Trọn lành trọn tốt.
Bàu chữa chúng tôi. 11. Mầng kính Đức
Bà / Cực thanh cực tịnh, Thánh thần tôn
kính. Bàu chữa chúng tôi. 12. Mầng kính Đức
Bà / Nước Cha trị đến, Chúng tôi kính mến.
Bàu chữa chúng tôi. 13. Mầng kính Đức
Bà / Phong trần vô nhiễm, Cực mầu cực nhiệm.
Bàu chữa chúng tôi. 14. Mầng kính Đức
Bà / Cực cao cực cả, Hằng làm phép lạ.
Bàu chữa chúng tôi. 15. Mầng kính Đức
Bà / Sanh vì Chúa tể : Ngôi Hai cứu thế.
Bàu chữa chúng tôi. 16. Mầng kính Đức
Bà / Cực khôn cực sáng, Thông minh tỏ rạng.
Bàu chữa chúng tôi. 17. Mầng kính Đức
Bà / Nhơn từ trinh thục, Muôn dân khâm phục.
Bàu chữa chúng tôi. 18. Mầng kính Đức
Bà / Trọn lành rất đỗi, Đáng khen đáng
ngợi. Bàu chữa chúng tôi. 19. Mầng kính Đức
Bà / Oai quờn phép tắc, Phá trừ linh tặc.
Bàu chữa chúng tôi. 20. Mầng kính Đức
Bà / Khoan nhơn trọng hậu, Đáng yêu đáng dấu.
Bàu chữa chúng tôi. 21. Mầng kính Đức
Bà / Thảo ngay trực chánh, Đáng ca đáng vịnh.
Bàu chữa chúng tôi. 22. Mầng kính Đức
Bà / Khiêm nhường quảng đại, Là gương nhơn
ngãi. Bàu chữa chúng tôi. 23. Mầng kính Đức
Bà / Là tòa Chúa Tể, Là cung Thánh Thể.
Bàu chữa chúng tôi. |
24. Mầng kính Đức
Bà / Là mầng vô giá, Là vui thiên hạ.
Bàu chữa chúng tôi. 25. Mầng kính Đức
Bà / Trọng thiêng linh nhiệm, Thanh bai vô nhiễm.
Bàu chữa chúng tôi. 26. Mầng kính Đức
Bà / Chúa Cha truyền định, Sanh Ngôi đáng
kính. Bàu chữa chúng tôi. 27. Mầng kính Đức
Bà / Thật Mẹ Chúa cả, Sáng soi thiên hạ.
Bàu chữa chúng tôi. 28. Mầng kính Đức
Bà / Như hoa hồng nở, Thơm tho rực rỡ.
Bàu chữa chúng tôi. 29. Mầng kính Đức
Bà / Tợ lầu Đa-vít, Cao sâu mịt mịt.
Bàu chữa chúng tôi. 30. Mầng kính Đức
Bà / Tợ thành nương náu, Tháp ngà châu
báu. Bàu chữa chúng tôi. 31. Mầng kính Đức
Bà / Chói lòa lừng lẫy, Như lầu vàng vậy.
Bàu chữa chúng tôi. 32. Mầng kính Đức
Bà / Như hòm Bia thánh, Nhiệm mầu công
chánh. Bàu chữa chúng tôi. 33. Mầng kính Đức
Bà / Cao quờn lộng lộng, Cửa trời mở rộng.
Bàu chữa chúng tôi. 34. Mầng kính Đức
Bà / Như sao Mai sáng, Mọc bày tỏ rạng.
Bàu chữa chúng tôi. 35. Mầng kính Đức
Bà / Cứu chưng tai nạn, Trợ người bệnh
hoạn. Bàu chữa chúng tôi. 36. Mầng Đức Nữ
Vương / Sửa đương lầm lỗi, Vực người có tội.
Bàu chữa chúng tôi. 37. Mầng Đức Nữ
Vương / Ủi an buồn bực, Giúp người khốn
cực. Bàu chữa chúng tôi. 38. Mầng Đức Nữ
Vương / Hộ phù che chở, Giáo nhơn mầng rỡ.
Bàu chữa chúng tôi. 39. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai thần thiên quấc, Khỏi trên muôn vật.
Bàu chữa chúng tôi. 40. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai hàng thánh Tổ, Vinh phong đồ sộ.
Bàu chữa chúng tôi. 41. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai Tiên tri thánh, Suốt thông rạnh
rạnh. Bàu chữa chúng tôi. 42. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai Tông đồ cả, Hằng làm phép lạ.
Bàu chữa chúng tôi. 43. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai hàng Tử đạo, Tâm thần toàn hảo.
Bàu chữa chúng tôi. 44. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai Tu hành thánh, Dẫn đàng nẻo
chánh. Bàu chữa chúng tôi. 45. Mầng Đức Nữ
Vương / Cai hàng Trinh tiết, Thế gian từ biệt.
Bàu chữa chúng tôi. 46. Mầng Đức Nữ
Vương / Vẹn tuyền tội Tổ, Ba Ngôi phù hộ.
Bàu chữa chúng tôi. 47. Mầng Chúa
Giê-su / Chuộc tội cứu thế, Thật vì Thiên Tể.
Tha tội chúng tôi. 48. Mầng Chúa
Giê-su / Chuộc tội cứu thế, Cùng ghe oai thể.
Nghe cho chúng tôi. 49. Mầng Chúa
Giê-su / Chuộc tội cứu thế, Tử hình chẳng nệ.
Thương xót chúng tôi. |
Liên 3 : tính linh 性靈
:
thông suốt, thiêng liêng sáng láng ; diệu dụng 妙用
:
cách dùng rất hay, có hiệu quả rất lạ ; thất sủng 七寵
: 7 ơn sủng của Đức Chúa Thánh Thần.
Liên 5 : hậu 后
: tức là hoàng hậu, nữ vương...
Liên 13 : phong trần vô nhiễm 風塵無染
: không nhuốm gió bụi.
Liên 17 : trinh thục 貞淑
: trong trắng và dịu dàng.
Liên 19 : linh tặc 靈賊
: giặc thiêng liêng, tức là 3 thù : ma quỷ, thế gian, xác thịt.
Liên 22 : nhơn ngãi 仁義
(cũng
đọc : nhân nghĩa) = có lòng thương người và sống chính đáng.
Liên 25 : thanh bai : từ cổ =
xinh đẹp và tế nhị, dịu dàng, không kệch cỡm.
Liên 33 : cao quờn : tức là
quyền cao.
Liên 35 : cứu chưng tại nạn :
chưng : tiếng cổ, thường làm trợ từ, xưa các cụ ta hay dùng làm tiếng Nôm để
dịch các chữ Nho 之 chi,
于 vu...
; có nghĩa là và, với, cùng..., ấy, đó..., kẻ mà, vật mà..., cũng có khi
chỉ là tiếng đệm ; cứu chưng tai nạn = cứu cho kẻ mắc tai nạn
Liên 36 : sửa đương : tđ
ĐNQÂTV : sửa đang : dọn dẹp, sắp đặt, cũng là sửa sang.
Các liên 39 – 45 : cai 該
: rút gọn của 該治 cai
trị,
該管 cai
quản
= trông nom, sắp đặt, bao quát hết thảy ; trước thường được dùng (một chữ cai)
để dịch các động từ Latin như guberno, administro...
Liên 39 : khỏi = vượt ra ngoài
; cai thần thiên quấc khỏi trên muôn vật = cai quản các thần thánh nước
trời, vượt lên trên hết mọi loài.
Liên 40 : vinh phong 榮封
: ban cho cách vẻ vang ; ở đây có nghĩa là Đức Mẹ được Thiên Chúa ban cho làm nữ
vương trên trời ; đồ sộ = rộng lớn, cả thể.
Liên 48 : ghe : từ cổ = nhiều
; oai thể 威體 (cũng
đọc : uy thể) : dáng vẻ trang nghiêm, khiến người phải tôn kính.
[6].
Thí dụ trong Institutio Generalis Missalis Romani, Quy chế tổng quát
sách lễ Rô-ma, 2002 ; bản tiếng Hoa18 羅馬彌撒經書總論
La-mã
Mi-sa kinh thư tổng luận, số 54, kèm nguyên văn Latin
:
Phiên âm phần chữ
Nho trong dấu ngoặc ┌ ┘ :
– nhân Nễ đích
Thánh Tử (...), ngã môn đích Chúa Da-tô Cơ-đốc
[Jesu Cristo], Tha hòa Nễ cập Thánh Thần, thị duy nhất Thiên Chúa, vĩnh
sinh vĩnh vượng
– Tha hòa Nễ cập
Thánh Thần, ... , vĩnh sinh vĩnh vượng
– Nễ hòa Thánh Phụ
cập Thánh Thần, ... , vĩnh sinh vĩnh vượng
Những chữ Nho đọc theo hai thanh khác nhau
có nghĩa khác nhau (thường là thay đổi từ loại), kiểu như chữ 王 vương / vượng
nói trên, không phải “của hiếm”. Thí dụ :
Vế đối được cho là do vua Lê Thánh tông
làm giúp một nhà làm nghề dọn phân, để dán cửa ngày tết :
衣 一
絨 衣
,
擔 世
間 之
難 事
Ý nhất nhung y, đảm thế gian chi nan sự
Trong vế đối này có hai chữ 衣 , khi đọc là y
(thanh Bằng) thì có nghĩa là cái áo (danh từ), khi đọc ý (thanh Trắc)
thì có nghĩa là mặc vào (động từ). Cả câu nghĩa là :
Mặc một áo nhung (cách nói khoa đại,
thật ra chỉ là chiếc... áo tơi), gánh lấy việc khó của thế gian (tả thật).
Vài chữ Nho khác :
mặt chữ |
thanh Bằng |
nghĩa |
thanh Trắc |
nghĩa |
正 |
chinh |
tháng
Giêng (âm lịch) |
chính |
ngay
ngắn |
彈 |
đàn |
bắn
ra, búng, bật, gảy |
đạn |
viên
tròn để bắn |
監 |
giam |
sở
quan, nhà tù, coi, xem |
giám |
cái
gương, chức quan |
調 |
điều |
làm
cho đều, thay đổi |
điệu |
giọng
nói, giọng hát cao thấp |
間 |
gian |
khoảng
trống, khoảng giữa |
gián |
chen
vào |
và còn rất nhiều chữ Nho khác nữa.
[7].
Giám mục Phê-rô Liêu, chữ Nôm : 監牧批嚕僚
,
là tên Việt Nam của giám mục Pierre-André Retord, sinh ngày 17-5-1803 tại Pháp,
thụ phong linh mục ngày 21-5-1828, gia nhập Hội Thừa sai Hải ngoại Paris ngày
21-6-1831. Năm 1838, ngài được bổ nhiệm làm giám quản tông tòa địa phận Tây
Đàng Ngoài tại Việt Nam, thụ phong giám mục ngày 31-5-1840. Ngài qua đời tại địa
phận Tây Đàng Ngoài ngày 22-10-1858.
[8].
Thí dụ : hiện nay, để được “nho nhã”, để “gần gũi với tiếng nói dân tộc”, người
ta vẫn còn ưa chuộng lối phiên âm tạm gọi là “nhị bội” :
- Lần “phiên âm thứ nhất” : phiên âm
bên Tàu, chọn một vài chữ Nho nào đó có âm đọc (tất nhiên theo giọng Tàu) na ná
với âm “gốc”. Chẳng hạn các chữ Nho 孟徳斯鳩
đọc
theo giọng Quan thoại là mèng-dé-sī-qiú, được người Tàu dùng phiên âm Montesquieu
;
- Lần “phiên âm thứ hai” : phiên âm
bên Ta, nhưng không theo ngôn ngữ gốc, mà lấy chữ Nho được người Tàu phiên âm
theo lối đọc của họ, rồi đọc những chữ Nho ấy theo lối của Ta, như 4 chữ Nho 孟徳斯鳩
trên đọc thành mạnh-đức-tư-cưu !
Mạnh-đức-tư-cưu
còn “đơ đỡ”, vì kể ra cũng khá “gần gũi” với Montesquieu đôi chút ; đến
như 盧梭 Lư-thoa (= cái thoi dệt
cửi mầu đen !) chẳng hạn, thì chịu, không biết phiên âm cái gì !
Tương tự thế là những
tên như :
la-mã 羅馬
luō-mǎ na ná
như roma
hoa-thịnh-đốn 華盛頓
huà-shèng-dùn na ná như washington
ý-đại-lị 意大利
yì-tài-lì na ná như
italia
đa-minh-ngã 多明我
duō-míng-wǒ na ná như domingo
(thánh Dominicus)
đa-mẫn-ngã 多敏我
duō-mǐn-wǒ na ná như domingo
(nt)
Lâu ngày thành
quen, và khi đã quen thì thôi cũng phải tạm chấp nhận.
Nhưng có khi người
ta cũng cứ thích bịa ra những cái thứ chả quen, như :
benedictus bịa ra kiểu “phiên âm” là “biển đức” (=
cả một biển nhân đức ?)
ignatius bịa ra kiểu “phiên âm” là “i nhã”
(nghĩa là gì ? y phục nhã nhặn ? Hóa ra không phải. Sự “phát hiện” ra i nhã
chỉ là do tình cờ : ai đó gõ chữ Việt trên máy tính theo kiểu gõ telex –
với lựa chọn “bỏ dấu tự do” – sau đó định gõ i nha xi ô – có thể có gạch
nối hoặc không –, muốn từ nha qua xi thì hoặc phải
có khoảng trống, hoặc phải có gạch nối, thì mới nhận được nha xi,
nhưng (vì hấp tấp ?) người gõ lại quên cả khoảng trống cũng như gạch nối. Vì thế
khi mới gõ i, rồi đến nha, rồi định gõ tiếp xi,
thì vừa mới gõ phím x, chương trình cho ngay kết quả hiện lên màn
hình là i nhã... Thấy “hay” quá, bèn “vui mừng sung sướng hân
hoan” (chữ dùng của Sơn Ca Linh), xin từ bỏ luôn i nha xi ô, xài ngay i
nhã cho thánh Ignatius được... nho nhã !)
...
Đã vậy còn viết
hoa cả biển lẫn đức, cả i lẫn nhã (chắc là muốn “Việt
hóa” hoàn toàn, coi biển với i là “tên họ”, còn đức với nhã
là “tên gọi”) !
Vì
thế cho nên cũng xin giới thiệu đến những ai sính
dùng lối “phiên âm” này :
Trong 天主教英漢袖珍辭典
Thiên
Chúa giáo Anh – Hán tụ trân từ điển (Từ điển Công giáo Anh –
Hán bỏ túi), mục từ Saint Vincent de Paul Society và mục từ Vincentians,
the ~ , đã gọi thánh Vincentius (mà hiện được “phiên âm” là Vinh-sơn
= núi vinh quang ?) là thánh 雲仙 Vân-tiên (yún-xiān ; =
tiên ở trên mây ?, giống y tên nhân vật chính trong truyện lục bát của Nguyễn
Đình Chiểu : Lục Vân Tiên 蓼雲仙 ),
thánh 文生 Văn-sinh (wén-shēng ; = người
học trò văn hoa ?), thánh 萬生 Vạn-sinh (wàn-shēng ; = muôn
kiếp sống ?), thánh 萬桑 Vạn-tang (wàn-sāng ; =
muôn cây dâu ?). Tha hồ chọn lựa !
[9].
Việc các giáo sĩ dòng Tên phiên dịch các sách Phụng vụ tiếng Latin ra chữ
Nho đối với hai trường hợp này phải kể là “đi trước thời đại”, vì mãi đến Công
đồng Vaticanô II, việc dùng tiếng bản xứ trong Phụng vụ mới được nhìn nhận
trong Constitutio de Sacra Liturgia (Hiến chế về Phụng vụ thánh) : xem số
36.2 trong Hiến chế, bản Latin và các bản dịch Hoa ngữ, Việt ngữ ở phụ lục dưới
đây.
Bùi Ngọc Hiển
Phụ lục
Constitutio de Sacra
Liturgia
Sacrosanctum Concilium
36. §1. Linguae latinae usus, salvo
particulari iure, in Ritibus latinis servetur.
§2. Cum tamen, sive in Missa, sive in
Sacramentorum administratione, sive in aliis Liturgiae partibus, haud raro
linguae vernaculae usurpatio valde utilis apud populum exsistere possit,
amplior locus ipsi tribui valeat, imprimis autem in lectionibus et admonitionibus,
in nonnullis orationibus et cantibus, iuxta normas quae de hac re in
sequentibus capitibus singillatim statuuntur.
...
Bản dịch chữ Nho (tại https://www.vatican.va/chinese/concilio/vat-ii_sacrosanctum-concilium_zh-t.pdf)
:
梵蒂岡第二屆大公會議文獻
《禮儀》憲章
禮儀的語言
36 一
.
在拉丁禮儀內 ,
除非有特殊法律規定 ,
應保存使用拉丁語 .
二 .
可是在彌撒內或在行聖事時 ,
或在禮儀的其他部分 ,
使用本地語言 ,
多次為民眾很有益處 ,
可准予廣泛的使用 ,
尤其在宣讀及勸勉時、在某些祈禱文及歌唱中為然 ,
有關此事的規則 ,
由下列各章分別記載 .
...
Bản dịch Việt ngữ (tại : https://giaophanvinhlong.net/Hien-Che-Ve-Phung-Vu-Thanh-Sacrosanctum-Concilium-Chuong-I.html)
Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh
36. Việc dùng Latinh và việc dùng tiếng
bản quốc.
1. Việc dùng tiếng Latinh, trừ luật
riêng, phải được duy trì trong các Nghi lễ Latinh.
2. Tuy nhiên, có thể sinh lợi rất nhiều
cho dân chúng nếu dùng tiếng bản quốc hoặc trong Thánh Lễ hoặc trong việc cử hành
các Bí tích, hoặc trong những phần khác của Phụng vụ ; cho nên việc dùng tiếng
bản quốc này cũng dễ dàng được chấp thuận hơn, đặc biệt trong các bài đọc và
các bài giáo huấn, một số lời nguyện và bài hát, tùy theo những quy tắc đã được
ấn định cho mỗi trường hợp trong những chương sau đây.
...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét