Thứ Năm, 6 tháng 1, 2022

THỨ BỐN VÀ THỨ TƯ

 

THỨ BỐN VÀ THỨ TƯ

 

Bùi Ngọc Hiển

 

Có một tập sách nhỏ dạng booklet của Hội Rất thánh Đức Mẹ Mân côi, nhan đề Kinh Mân côi, nội dung gồm các ngắm tắt 20 mầu nhiệm Rosario và một vài kinh nguyện khác (bìa như hình 1 dưới đây).

Hình 1

Đối với 20 ngắm tắt, tất cả các ngắm thứ 4 trước nay vẫn quen đọc là [ngắm] thứ bốn, đều được sửa thành thứ (hình 2) :

Hình 2

“Bốn” với “tư” cũng là đề tài tranh luận khởi phát từ một đề thi – mà lại là đề thi môn Toán – tại một trường phổ thông vào khoảng đầu năm 2016. Đề thi đó như sau (hình 3) :

Hình 3

Trong số những người nêu ý kiến về đề thi trên, có một vị tiến sĩ (vì không được nghe / đọc trực tiếp từ chính vị này, mà chỉ được tường thuật trên mặt báo, nên xin không nêu tên vị này ở đây) cho rằng (hình 4) :

Hình 4

Nếu quả thực “ là cách đọc của số thứ tự, còn bốn để đọc số đếm”, thì e rằng người Công giáo Việt Nam đã dùng tiếng Việt sai be bét “từ đời nọ đến đời kia”, và nếu thế, không riêng các ngắm tắt của “kinh Mân côi” phải được sửa lại như việc làm của Hội Rất thánh Đức Mẹ Mân côi, mà còn rất nhiều kinh khác cũng phải sửa lại tương tự. Thí dụ tất cả các kinh đọc ngày Chúa Nhật từ sau kinh Nghĩa Đức tin cho đến hết kinh Phúc thật tám mối. Hơn thế nữa, còn phải sửa lại tất cả các loại “ngắm” như ngắm 14 nơi thương khó Đức Chúa Giêsu, ngắm Đứng, ngắm Rằng, ngắm Dấu đanh, ngắm Bảy sự đau đớn Đức Bà, ngắm Bảy sự đau đớn cùng bảy sự vui mừng ông thánh Giuse !

Nhưng có đúng như vậy không ?

Xin thưa luôn : Không hề ! Nhận định trên của vị tiến sĩ nọ chỉ là nhận định theo cảm tính cá nhân, có phần võ đoán ; người nhận định tưởng là thế mà không phải thế (nhưng lại muốn bắt buộc người khác cũng phải nhìn nhận như thế bằng cách dùng đến hai lần từ “phải” trong nhận định của mình).

Ta hãy thử xem xét việc dùng “thứ bốn” và “thứ tư” trong tiếng Việt xưa nay.

Hai tác phẩm có lẽ phải kể là xưa nhất có liên quan tới sự việc trên là quyển “Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma ꞗĕào đạo thánh đức Chúa blời” (tiếng Việt trong nguyên bản) hay “Cathechismvs pro ijs, qui volunt suscipere baptismvm in octo dies diuisus” (tiếng Latin), và quyển Dictionarivm Annamiticvm Lusitanvm et Latinvm, thường được gọi là từ điển Việt – Bồ – La. Cả hai tác phẩm này của cùng một tác giả : linh mục dòng Chúa Giêsu (thường gọi là dòng Tên) Alexandre de Rhodes, tên theo tiếng Việt quen gọi là Đắc Lộ, và được in cùng năm 1651.

Quyển thứ nhất là các bài giáo lí căn bản của giáo hội Công giáo bằng tiếng Latin được cha Đắc Lộ soạn cho các thầy giảng bên Âu châu muốn sang truyền giáo tại nước Đại Việt, cùng với bản dịch sang tiếng Việt. Tiếng Việt trong sách này là một hệ thống chữ viết theo bộ mẫu tự Latin cùng với nhiều chữ và dấu khác vốn không có trong tiếng Latin, mà nay được phát triển thành hệ thống chữ viết tiếng Việt được gọi chính xác là chữ Quốc ngữ.

Quyển thứ hai là một từ điển tiếng Việt, cũng dành cho các nhà truyền giáo, để có thể hiểu được tiếng nói của dân chúng nơi họ định đến là nước Đại Việt, nhờ vào hệ thống chữ viết – là tiền thân của chữ Quốc ngữ  – được dịch ra hai thứ tiếng Âu châu là Bồ-đào-nha và Latin.

Như thế cả hai tác phẩm trên không nhắm đến độc giả là người Việt, mà nhắm đến những giáo sĩ Tây phương, như phương tiện giúp các vị này có thể nói bằng tiếng bản xứ (quyển thứ nhất), và nghe hiểu được tiếng bản xứ (quyển thứ hai). Do đó, tiếng Việt trong cả hai quyển này được chọn lọc sao cho đó phải là những tiếng phổ biến trong dân chúng.

Ở quyển đầu không hề có từ ngữ “thứ tư” ; ngược lại “thứ bốn” có thể gặp thấy nhiều lần : không kể các tiêu mục đầu trang “Ngày thứ bốn”, từ trang 94 đến t. 132, còn năm chỗ khác cũng có “thứ bốn” (không kể những chỗ chỉ có “bốn” mà không có “thứ” ở trước).

Ở quyển sau, là một tiểu từ điển, cũng không có “thứ tư”, trong khi ở cột 53, mẫu tự B, có :

bốn : quatro : quatuor (;) thứ bốn : o quarto : quartus, a, um. (chữ in nghiêng, theo nguyên bản, là chữ Bồ-đào-nha tương ứng) ;

và :

tư, bốn : quatro : quatuor ; tháng tư : quarto mes : quartus mensis (..., và không có thứ tư)

Những số mục khác, có :

một, nhít [= nhứt, nhất] ; thứ nhít ; hai (đôi, nhị) ; nhị [không có nhì] ; ba ; thứ ba ; năm ; sáu ; bảy ; tám ; chín ; mười ; mươi.

Tất nhiên khi một từ nào đó không có trong từ điển của một tác giả nào đó, thì không hẳn là trong đời thật không có từ ngữ này. Điều đó xảy ra có thể là vì vào thời điểm tác giả soạn từ điển thì :

- hoặc là chưa xuất hiện từ ngữ đó ;

- hoặc là từ ngữ “bị sót” (nếu thật là thế) có mức độ phổ biến thấp, ít phổ biến, không thông dụng.

Như thế nếu trong từ điển của linh mục Đắc Lộ có “thứ bốn” mà không có “thứ tư”, thì có thể lúc đó trong tiếng Việt, “thứ bốn” phổ biến hơn “thứ tư” (cũng có thể chưa xuất hiện kiểu nói “thứ tư”, nhưng không có gì làm bằng chứng). Quyển Phép giảng tám ngày... khẳng định thêm về điều này. Vì nếu các thầy giảng nước ngoài giảng bằng tiếng bản xứ cho người bản xứ mà dùng từ ngữ không thông dụng với người bản xứ, thì khó làm cho họ nghe và hiểu điều các vị đó nói.

Đối với các sách vở viết bằng chữ Nôm (chỉ chữ Nôm mới có “bốn”, mặt chữ có thể là 𦊚 / / ...), tuy rất khó tìm được các tác phẩm giúp cho việc so sánh hoặc xác định từ ngữ nào thông dụng hơn giữa “thứ bốn” và “thứ tư” [1], nhưng vẫn có, như trong :

- Sách Bảo xích tiện ngâm 保赤便吟 (nghĩa đen : tiện ngâm ngợi lúc trông con), của Đỗ Huy Uyển 杜輝琬 (1815 – 1882) [2] :

t. 2b, dòng 6 :

Làm thợ nghề ấy thứ ba

Đi buôn thứ bốn cũng là tứ dân...

(tứ dân : 4 nghề trong dân : = đi học, làm học trò, làm quan ; nông = làm ruộng, chăn tằm... ; công = làm thợ ; thương [hoặc cổ] = đi buôn bán)

Có thể trong các sách vở chữ Nôm khác cũng có những tư liệu về “thứ bốn” / “thứ tư”, nhưng xin dành lại cho những ai muốn tìm tòi khảo cứu.

Chẳng riêng gì “thứ” mới có “thứ bốn”, tháng cũng có “tháng bốn”, dù không nhiều. Ca dao :

Tháng giêng, tháng hai,

tháng ba, tháng bốn,

tháng khốn, tháng nạn,

đi vay đi dạm

được một quan hai...

(đi dạm : đi hỏi mượn ; dị bản : đi tạm)

Trong văn học :

Hai câu đầu bài thơ Nôm 沁滝香 Tắm sông Hương của Nguyễn Văn Trình (1872-1949) [3] :


Năm Mậu Ngọ, ngày mười, tháng bốn,

Một con thuyền dạo ngọn sông Hương...

Trên đây là trình bày sơ qua về việc dùng “thứ bốn” trong quá khứ. Còn hiện nay thì sao ?

Cũng xin thưa rằng hiện nay “thứ bốn” vẫn được người Việt dùng trong nhiều sách vở. Thí dụ trong các từ điển song ngữ gồm một ngoại ngữ nào đó được dịch sang tiếng Việt, vẫn thấy “thứ bốn” được dùng bên cạnh “thứ tư”, để dịch những chữ như quatrième trong tiếng Pháp, fourth, tiếng Anh, vierte, tiếng Đức, quarto, tiếng Í...

Gần đây có một tác phẩm (không thuộc loại từ điển) : Phật học Việt Nam thời hiện đại : Bản chất, hội nhập và phát triển, NXB Hồng Đức, 2019, do nhiều tác giả cùng biên soạn. Trong bài thứ 30, Phật học Việt Nam thời hiện đại : Xây dựng chuyên ngành quan hệ đối ngoại Phật giáo, tác giả : TS. ĐĐ. Thích Thanh Tâm, có đoạn (tt. 470, 471 ; hình 5 dưới đây), xin trích :

“...

“2. Nội dung đào tạo chuyên ngành Quan hệ đối ngoại Phật giáo

“... Thứ nhất, về mục tiêu nghiên cứu...

Thứ hai, về mục tiêu đào tạo...

Thứ ba, về yêu cầu khả năng...

Thứ bốn, về kiến thức được cung cấp...” (hết trích)


Hình 5

Trong việc đặt tên người, bên cạnh “anh Tư” (như trong thí dụ của vị tiến sĩ nọ), vẫn có “ông / bà / bác / cậu / anh / chị ... Bốn”. Chẳng có quy định nào bắt phải gọi người con thứ 4 trong gia đình (hoặc con thứ 3 đối với các gia đình ở miền Nam) là , và cũng không có quy định nào cấm gọi những người con đó là Bốn !

Vị tiến sĩ nói trên còn đưa ra một thí dụ để “giải thích thêm” (trích nguyên văn) : “người ta sẽ nói bốn cái bánh chứ không ai dùng tư cái bánh”, và với quan điểm của mình, vị tiến sĩ đó cho rằng “tư” chỉ được dùng làm số thứ tự.

Có phải quả thật “tư” chỉ được dùng làm số thứ tự không ?

Lại xin thưa rằng : cũng không phải.

- Ca dao :

Yêu nhau cau bảy bổ ba,

Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.

Rõ ràng bổ ba có nghĩa là bổ quả cau lớn (đáng bổ được bảy miếng, nhưng vì “yêu nhau” nên đã bổ) ra làm ba miếng, ba phần, để mỗi phần lớn hơn gấp đôi bình thường. Vậy thì chia cái bánh cũng có nghĩa chia cái bánh thành miếng. Gấp tờ giấy nghĩa là gấp tờ giấy thành phần. Nói miếng bánh” được thì tất nhiên cũng nói cái bánh” được. Xin xem thêm :

 - Đồng dao trong trò chơi “đánh chuyền” :

Đôi chúng tôi, đôi chúng nó,

đôi con chó, đôi con mèo,

đôi sang ba.

Ba hoa cà, ba hoa lí,

ba bí ngô, một sang .

củ từ, củ khoai,

hai sang năm...

Dị bản :

ông sư, bà vãi, hai sang năm.

- Câu tục ngữ nói về thái độ của người ba phải :

Mười lăm cũng ừ, mười tư cũng gật.

Dị bản :

Mười rằm cũng ư, mười tư cũng gật.

- Bài hát xẩm :

Mười tư tiện lối lên chùa,

Nghe hơi mát tự nhiên lùa sau lưng...

- Hát hầu đồng :

Đồng con nhang khói phụng thờ,

Ba mươi, mồng một, mười tư, hôm rằm...

- Những số đếm lớn hơn 20 :

24 = hai mươi bốn = hai mươi tư ; thậm chí những chữ “mươi” có khi còn bỏ đi : 24 = hai bốn = hai tư ;

140 = một trăm bốn mươi = trăm tư ;

3400 = ba ngàn bốn trăm = ba ngàn tư...

Trở lại với đề thi ở hình 3, các cách đọc mà đề thi nêu ra cho số 74 đều là các cách đọc đúng (mà đã đúng thì không có chuyện đúng hơn hay đúng kém) :

74 = bảy mươi bốn = bảy mươi tư = bảy bốn = bảy tư !

Và nhận định của vị tiến sĩ nọ rằng “tôi không đồng quan điểm với giáo viên khi chọn đáp án bảy mươi tư, phải là bảy mươi bốn mới đúng”, thì chính nhận định này cũng sai chả kém cái sai của người ra đề cho học sinh !

Tiếng Việt của chúng ta là di sản quý giá tổ tiên để lại. Tiếng Việt  rất hay, rất đẹp, muôn vẻ, muôn màu, thế mà ta không biết giữ gìn, lại còn đem đóng khung, bó rọ, nhốt vào chuồng, giam vào cũi chật chội.

Có thể kết luận : kiểu nói “thứ bốn trong các kinh Công giáo tiếng Việt là hoàn toàn đúng, chẳng những đúng với kiểu nói của tổ tiên trong quá khứ, mà còn đúng cả với hiện nay. Vậy người Công giáo Việt Nam cứ an tâm nguyện ngắm theo các kinh có những từ ngữ “thứ bốn đó, chẳng cần phải thắc mắc, áy náy đến độ phải đổi thành “thứ tư” làm gì cho mất công, vì “thứ tư” cũng không thể đúng hơn “thứ bốn !

 

                                        Những ngày cuối năm 2021

                                                  Bùi Ngọc Hiển

 

 

Vài chú thích :

[1] Có lẽ có nhiều lí do như :

Trong thời quân chủ cho đến khoảng đầu thế kỉ XX, ở nước ta, ngôn ngữ hành chánh luôn là chữ Nho, còn tiếng nói phổ biến trong dân chúng dù được một số nhà Nho gọi một cách trang trọng là “Quốc âm”, nhưng đa số người (cả người “có học” lẫn người “quê mùa”) khinh bỉ chê bai rằng “Nôm na là cha mách qué”.

Các cụ (thuộc giới “có học”) có khi cũng làm thơ, viết văn bằng chữ Nôm, nhưng khi nhận xét, bình luận về chính những thơ văn Nôm đó lại dùng đến chữ Nho. Thí dụ một tác phẩm rất phổ biến là truyện Kiều, chẳng hạn quyển 金雲翹廣集傳 Kim Vân Kiều quảng tập truyện của nhà 柳文堂 Liễu Văn đường, in năm 1924, nửa dưới mỗi trang là nguyên truyện bằng chữ Nôm, nửa trên bình chú bằng chữ Nho.

Hay như câu chuyện được Phạm Đình Hổ kể lại trong 雨中隨筆 Vũ trung tùy bút về Nguyễn Khản (1734 – 1787) với chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm (1739 – 1782), xin trích theo bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến :

“Ông Nguyễn Khản khi đang làm quan, thường xin phép nghỉ ở nhà ; chúa Trịnh có đưa cho bài thơ nôm rằng

“Đã phạt năm đồng bỏ buổi chầu

“Lại phạt năm đồng bỏ buổi câu

“Nhắn nhủ ông bay về nghĩ đấy

“Hãy còn phạt nữa chửa thôi đâu

“Vì khi ấy, buổi ngoại chầu và buổi ngự câu, đang lúc nghỉ, ông không tới hầu ngự được, nên đều bị phạt năm đồng. Nguyễn Khản có họa lại rằng :

“Váng vất cho nên phải cáo chầu

“Phiên chầu còn cáo lọ phiên câu

“Trông ân phạt đến là thương đến

“Ấy của nhà vua chứ của đâu

“Chúa Trịnh lấy làm khen. Một ngày kia, trong nhà Nguyễn Khản bày cuộc yến tiệc, thiếu chè uống. Chợt quan trung sứ có việc ra nhà ông, ông không kịp làm tờ khải, chỉ viết tay mấy chữ “Thần Khản khất trà nhất lạng”. Quan trung sứ đem về dâng, chúa Trịnh ban cho một hòm chè.” (hết trích)

“Thần Khản khất trà nhất lạng” là một câu chữ Nho, mặt chữ Nho là : 臣侃乞茶一兩 , có nghĩa là “bầy tôi Khản xin [sát nghĩa là : ăn mày] một lạng trà”.

Có thể thấy nhà chúa cũng như bầy tôi làm thơ thì cũng dùng Nôm cả với nhau, nhưng có mấy chữ xin trà mà lại phải dùng đến chữ Nho cho ra vẻ “nho nhã”, đủ biết thái độ coi khinh thứ “ngôn ngữ dân gian” của các ngài “có học” !

Một lí do khác : trong các sách vở cũ, cả chữ Nho lẫn chữ Nôm, các số từ thường dùng để đo, đếm..., hơn là để sắp xếp thứ tự. Có thể xem vài thí dụ :

- Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục 欽定越史通鑑綱目 , quyển thủ 卷首 , phàm lệ 凡例 , có hơn 50 lệ đều không được đánh số thứ tự (như đệ nhất lệ, đệ nhị lệ... chẳng hạn). Mỗi lệ đều được bắt đầu bằng chữ nhất, nên phải dịch chữ nhất đầu lệ thứ nhất là : “một là”, chữ nhất thứ hai : “một nữa là”, chữ nhất thứ ba : “lại một nữa là”, v.v và v.v... !

- Bộ Đại Nam điển lệ toát yếu 大南典例撮要 có mấy trăm lệ, cũng không được đánh số thứ tự. Thí dụ 吏例 Lại lệ, mục 廕授 Ấm thụ, t. 34b : 例明命年間 lệ Minh Mạng niên gian (lệ trong khoảng các năm Minh Mạng)..., t. 35a : 例明命十年 lệ Minh Mạng thập niên (lệ trong năm Minh Mạng thứ 10)..., t. 35b : 例明命年十九 lệ Minh Mạng thập cửu niên.., 例嗣徳九年 lệ Tự Đức cửu niên...

[2] Sách này hiện còn bản lưu tại Thư viện Quốc gia, mang kí hiệu R.1954 ; có thể xem dễ dàng tại trang mạng truyền thông Dự án số hóa kho tàng thư tịch cổ Hán Nôm, kí hiệu NLVNPF-0521. Trang đầu bản này có 3 dòng :

- 龍飛辛丑冬 Long phi Tân Sửu đông (mùa đông năm Tân Sửu ; 龍飛 Long phi ở đây không phải một niên hiệu của một vua nào, chỉ có ý nói dân nước tuân theo niên hiệu vua đương vị mà thôi) ;

- tên sách viết bằng bốn đại tự 保赤便吟 Bảo xích tiện ngâm (nghĩa đen : khúc ngâm ngợi nhân khi trông con [đỏ]) ;

- 試生隆敬刊 Thí sinh Long kính san (= học trò từng đi thi tên Long vẫn chưa biết là ai kính khắc in ; 試生 thí sinh, hoặc 試士 thí sĩ là danh xưng gọi chung những người đã thi đậu từ tam trường, tức là tú tài, trở xuống đến nhị trường, nhất trường trong các kì thi hương, đừng hiểu như bây giờ là những người chuẩn bị vào thi / người dự thi).

Vị thí sĩ tên Long này có viết một bài giới thiệu ngắn cuối sách. Theo bài giới thiệu đó có thể biết sách này nguyên là gia huấn (viết theo thể văn vần lục bát, cả thảy có 106 liên = 212 câu) của Đỗ Huy Uyển ( 杜輝琬 , 1815 – 1882, quê làng La Ngạn, huyện Đạo An, tỉnh Nghĩa Hưng, nay thuộc tỉnh Nam Định, từng làm quan biện lí bộ Hộ, nên quen gọi là biện lí La Ngạn). Vẫn theo bài giới thiệu, nhờ lời gia huấn, mà về sau con ông là Đỗ Huy Liêu (杜輝寮 , 1845 – 1891) học hành chăm chỉ giỏi giang, thi đậu đình nguyên (năm Kỉ Mão 1879), sống hiếu thuận với cha mẹ, có khí tiết với quốc gia, như xác nhận của Khiếu Năng Tĩnh ( 叫能靜 ; 1835 – 1915) trong đôi câu đối viếng khi Đỗ Huy Liêu mất :


Hiển tàng độc dị phùng tam Mão

Tâm sự toàn nghi đối lưỡng thân

Tạm dịch :

Hiển tàng riêng lạ đều ba Mão ;

Tâm sự trọn niềm với lưỡng thân.

(hiển tàng : hiển = rạng rỡ, dùng chỉ những việc như thi đậu, ra làm việc..., tàng = cất, giấu, dùng chỉ những việc như về hưu, không bon chen việc đời, ở đôi câu này chỉ về việc qua đời ; tam mão = ba Mão : Đỗ Huy Liêu thi đậu giải nguyên kì thi Hương năm Đinh Mão 1867, đậu đình nguyên năm Kỉ Mão 1879, mất năm Tân Mão 1891 ; tâm sự = lòng lo và việc làm ; toàn nghi = những việc thuộc về bổn phận phải làm đều đã làm trọn vẹn ; lưỡng thân = hai thân = cha và mẹ)

Theo bài giới thiệu, năm Tân Sửu (có phần chắc chắn là năm 1901) ghi ở đầu sách có lẽ chỉ là năm sách được khắc in. Có lẽ Đỗ Huy Uyển chỉ gọi bản văn này là bản gia huấn, còn Bảo xích tiện ngâm là do vị thí sĩ tên Long đặt ra.

[3] Nguyễn Văn Trình (1872 – 1949), người huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ; đỗ cử nhân năm 1897, qua năm sau lần lượt thi hội và thi đình, đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Ông sáng tác khoảng gần 200 bài thơ, hầu hết là thơ Nôm, mãi đến năm 2004 một số thơ của ông mới được tập hợp và in.

 




Không có nhận xét nào: