CÂU ĐỐI CÔNG GIÁO
Việt
Nam trước đây được coi là một nước đồng văn với Trung Hoa (như Nhật Bản, Cao
Ly), chữ viết chính thức là Chữ Hán (có điều đọc theo âm riêng của người
Việt Nam, gọi là âm Hán – Việt). Nền học thuật tổ chức theo Trung Hoa,
văn hoá cũng bị ảnh hưởng sâu đậm. Vì thế Câu Đối không xa lạ gì với người
Việt, có thể gặp thấy ở bất cứ đâu, cả trong nhiều Thánh Đường Công giáo. Thí dụ
Thánh Đường giáo họ Lai Thành, Giáo xứ Hoài Lai, Giáo phận Phát Diệm có nề đôi
câu
[c. 1] :
[c. 1] :
Thiên
thu kí tích kim đài,
tịnh phối Nữ Vương siêu bách thánh ;
Vạn cổ
lưu phương thạch cốc,
danh xưng Chúa Phụ quán quần thần.
Nghĩa
là :
Ngàn
thu ghi dấu chốn đài vàng,
bạn vẹn sạch Nữ Vương vượt trên các
thánh ;
Muôn
thuở để thơm nơi hang đá,
danh thật là Bõ Chúa đầu hết quần thần.
Tại Giáo phận Bà Rịa, hạt Vũng Tàu, trên cửa chính Thánh
Đường Giáo xứ Hải Xuân có chạm đôi câu
[c. 2] :
[c. 2] :
Tử đài di bắc hải ;
Mẫu điện hội nam xuân.
Nghĩa mặt chữ :
Đài Con dời biển bắc ;
Điện Mẹ góp xuân nam.
Nhưng ý người viết đôi câu này không chỉ có thế, mà còn hàm chứa một ý thứ hai hiểu là :
Dời nhà thờ của Con
(Con ở đây cũng như Mẹ trong vế sau được viết hoa vì nói đến Chúa Con và Mẹ
Maria) tử Giáo phận gốc Hải Phòng ngoài bắc ;
Dựng lại đền cho Mẹ ở
Giáo phận Xuân Lộc trong Nam.
Hai chữ cuối đôi câu
ghép lại thành tên Giáo xứ.
Xin mở dấu ngoặc. Tác
giả của đôi câu này là Cụ Bá Hàm, người trong Giáo xứ, khi ấy là một
lương y, có nhà mở phòng mạch trên quốc lộ 15, nay đổi là đường 30 tháng 4. Trước
nhà có bốn cột gạch với hai đôi câu đối sơn chữ đen trên nền tường vàng và đều
là câu đối Nôm. Một trong hai cặp đó người viết bài này vẫn còn nhớ vì khá
thú vị và đặc sắc, xin dẫn lại đây
[c. 3] :
[c. 3] :
Sinh thục thang hoàn
nam bắc gần xa lui tới ;
Riêng chung khép mở
trẻ già thân ái ra vô.
Thú vị là vì tác giả đem bốn chữ chỉ bốn dạng thuốc bắc : sinh (dược liệu tươi, sống), thục (dược liệu đã làm chín [đồ, sao...]), thang (thuốc được sắc với nước cho cạn ít nhiều để uống), hoàn (thuốc viên lại thành viên), đối với bốn chữ sẵn trong một câu Kiều :
nam bắc gần xa lui tới ;
Riêng chung khép mở
trẻ già thân ái ra vô.
Thú vị là vì tác giả đem bốn chữ chỉ bốn dạng thuốc bắc : sinh (dược liệu tươi, sống), thục (dược liệu đã làm chín [đồ, sao...]), thang (thuốc được sắc với nước cho cạn ít nhiều để uống), hoàn (thuốc viên lại thành viên), đối với bốn chữ sẵn trong một câu Kiều :
Nỗi đêm khép mở,
nỗi ngày riêng chung...
để nói rằng : Nhà riêng của cụ cũng là nhà chung cho mọi người, để bất cứ
ai, trẻ hay già, ngày hay đêm mà cần đến gặp, cụ vẫn sẵn sàng thân ái đón tiếp
để chẩn bệnh, bốc thuốc, cứu chữa...
Đặc sắc ở chỗ cụ Bá là
người Bắc, nhưng lại đặt câu với hai chữ ra vô, là kiểu nói thường gặp với
người Nam (người Bắc hay nói là ra vào hoặc vào ra hơn).
Nay cụ Bá đã là người của
nghìn xưa, nhà của cụ không còn là phòng mạch bốc thuốc nữa ; không những thế,
nó đã được phá đi xây mới hoàn toàn, mấy cặp câu đối cũng biến mất. Nhưng đôi
câu của cụ chạm trên hai cửa chính Thánh Đường Hải Xuân từ thời cha già cố
Phêrô Nguyễn Văn Lạc thì vẫn còn.
Câu Đối không chỉ xuất
hiện ở những cổng, những cửa như vậy, mà còn có mặt trong các kinh nguyện ngày
trước. Kinh Cảm tạ niệm từ là một thí dụ. Kinh này viết theo lối văn tế (cũng
là lối phú), mỗi liên có hai vế đối nhau. Tại miền Nam trước kia trong sách
kinh nguyện thường ngày, có tên đầy đủ là Thiên Chúa Thánh giáo nhựt khoá tịnh
Chúa Nhựt pháp [= kinh đọc thường ngày và Chúa Nhật của đạo thánh Đức Chúa
Trời], quen gọi tắt là sách Mục Lục, ở Đệ thất thiên [= Thiên thứ
bảy], các kinh cũng được viết hầu hết theo lối phú, mỗi liên đều gồm những vế đối
nhau. Các thiên khác gồm các kinh viết lối văn xuôi, như kinh Lạy Cha, Kính
Mừng, v.v... ; các kinh theo lối văn vần, thường là loại mỗi câu bốn chữ,
tám chữ, cũng có khi năm bảy chữ không chừng (nhưng không thấy có kinh nào làm
theo lối lục bát như kinh ngoài Bắc). Hầu hết các câu thí dụ dưới đây là trích
ra từ quyển sách kinh này.
Tuy nhiên, những câu đối
như được dẫn ra ở đầu bài viết này toàn bằng chữ Nho, nay ít ai còn đọc được. Cả
kinh Cảm tạ niệm từ cũng thế. Còn các kinh trong sách Mục Lục dù
không toàn bằng chữ Nho, nhưng hoặc cũng có lẫn ít nhiều chữ Nho, hoặc có những
chữ cổ xưa quá, nên hiện cũng không thấy đọc những kinh này nơi các Thánh Đường
thuộc các địa phận miền Nam. Dù vậy gần đây thấy xuất hiện chỗ này chỗ khác nhiều
câu đối của những tác giả Công giáo viết theo các chủ đề mục vụ. Thí dụ
[c. 4] :
[c. 4] :
Không bởi con trông lên,
Nhưng vì Ngài cúi xuống.
(PM. Cao Huy Hoàng ; tại
:
http://conggiao.info/news/2155/2977/vai-cau-doi-ve-thang-cac-linh-hon.aspx)
Đôi câu khác
[c. 5] :
[c. 5] :
Gia đình thánh thiện thuận hoà ;
Giáo xứ yêu thương hợp nhất.
(Đỗ Trí Thức ; tại :
http://gxphuhoa.org/cau-doi-cong-giao-p2.html)
Hoặc
[c. 6] :
[c. 6] :
Ơn Chúa tràn đầy,
Xuân mới chan hoà trên đất nước ;
Xuân mới chan hoà trên đất nước ;
Lửa
Trời chiếu dọi,
Tin Mừng rạng tỏ khắp nhân gian.
Tin Mừng rạng tỏ khắp nhân gian.
(Stêphanô
Huỳnh Trụ ; tại :
http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110113/8529)
Những
câu dẫn trên chỉ là số khá ít ỏi trong những câu đúng nghĩa Câu Đối ; đó
là vì có người cho rằng chỉ cần đôi câu có số chữ bằng nhau là đủ làm thành đôi
câu đối, còn niêm luật, bằng trắc, chữ nghĩa, ý tứ ra sao cũng được.
Câu
chữ treo trong Thánh Đường tất nhiên có ai quy định phải là những Câu Đối
đâu, miễn sao chuyển tải được ý nghĩa cần thiết, lại
nếu lấy từ Kinh Thánh thì càng tốt. Nhưng đó không phải đối tượng nói đến trong
bài viết này, dù trong Kinh Thánh không thiếu những câu đem ghép lại thành những
cặp Câu Đối đúng nghĩa. Xin được nói đến sau.
I. Các quy tắc của Câu Đối
Phần
đề cập về các quy tắc của Câu Đối được trình bày dưới đây là phần trích
được rút ngắn từ quyển Tìm hiểu và thưởng thức câu đối, Bùi Ngọc Hiển,
Vũng Tàu, 2001. Các thí dụ nếu trích dẫn từ các kinh trong Thiên Chúa thánh giáo nhựt khoá sẽ ghi chú thêm vị trí câu đó trong toàn quyển sách.
Câu đối là một cặp câu vừa cân xứng nhau về số chữ vừa
phải cân xứng về âm điệu, văn phạm, ý
nghĩa, thậm chí cả những biện pháp tu từ (mỹ từ pháp) nôm na là các kiểu chơi
chữ nếu có. Mỗi câu gọi là một vế. Học trò ngày xưa đi học thì chỉ có mỗi
việc học văn chương chữ nghĩa, mà 小 學 莫 先 於 應 對 tiểu học mạc tiên ư ứng đối [= tiểu học chẳng
tập tành gì trước việc tập ứng đối]. Sau đó thì trong bất cứ thể loại văn nào,
từ thơ ngũ ngôn thất ngôn Đường luật, đến phú, văn tế, kinh nghĩa..., việc ứng
đối trong các câu văn hầu như không thể thiếu. Do đã được tập tành ngay lúc bé
tí đến nhuyễn nhừ, nên các cụ ngày trước làm câu đối chỉ có hay hoặc không hay,
chứ không có câu đối làm sai, dù các cụ chả phải phân tích tỉ mỉ bằng phương
pháp khoa học như "chủ ngữ" "vị ngữ" là gì, chữ này chữ nọ
có bao nhiêu "nét nghĩa", thế nào là "câu ghép đẳng lập"
"câu ghép chính phụ"... Ấy thế nhưng hỏi đến phép tắc làm Câu Đối,
sẽ được các cụ giảng giải rành mạch.
Thực
ra, các quy tắc ấy tóm gọn lại chỉ có ba việc sau :
1. Tương
ứng về số chữ : số chữ ở mỗi vế của một đôi câu đối đương nhiên phải bằng
nhau ;
2. Tương
ứng về luật Bằng – Trắc : chữ ở vế này là Bằng, thì chữ ở vị trí tương ứng
trong vế kia phải là Trắc, và ngược lại ;
3. Tương ứng về bản thân mỗi chữ trong câu : hai chữ thuộc cùng một vị trí như nhau trong mỗi vế của một cặp Câu Đối tương ứng với nhau về từ loại, về chức năng văn phạm, về các cách dùng các kiểu mỹ từ pháp nếu có.
Nay
xin nói rộng ra về các quy tắc đó.
1. Quy tắc tương ứng về số chữ : quá dễ hiểu ; ở đây chỉ xin nói về việc phân chia các
câu đối theo số chữ (tức là theo độ dài ngắn).
1. 1.
Câu đối không quá 4 chữ : thường gọi là câu tiểu đối. Dù ngắn, nhưng có
khi câu 4 chữ lại được ngắt ra hai đoạn, mỗi đoạn hai chữ : đó là khi mỗi cặp
hai chữ đó lại đối với nhau ngay trong cùng một câu (gọi là đương cú
đối).
1. 2.
Câu đối 5 đến 7 chữ : gọi là câu đối thơ (vì được coi như những cặp câu
có đối nhau trong một bài thơ Đường luật : cặp 3 / 4 hoặc cặp 5 / 6) ; cũng gọi
là câu song quan (ví như hai cánh cửa đặt sóng đôi nhau). Thí dụ các câu
số 2, số 4, số 5 dẫn trên đều thuộc loại câu song quan.
1. 3.
Câu đối có từ 8 chữ trở lên : số chữ trong câu đã dài, nên phải ngắt thành nhiều
đoạn. Nếu mỗi câu ngắt thành hai đoạn thì gọi là câu cách cú ; ngắt
thành ba đoạn thì gọi là câu hạc tất (hay gối hạc).
Câu cách
cú còn có tên nữa là câu tứ lục, là những câu 10 chữ chia thành 4 +
6. Nhưng cả những câu ngắt theo kiểu 6 + 4, hoặc không đúng số chữ như thế, nhưng có thể ngắt thành 2 đoạn, vẫn
cứ gọi được là câu tứ lục. Thí dụ câu số 3 dẫn trên là một câu tứ lục
"chính danh" ; tuy vậy, cả câu số 6 (4 + 7), câu số 1 (6 + 7) cũng vẫn
được kể là câu tứ lục.
Vì số
chữ trong câu đối không bị giới hạn, có sức làm được bao nhiêu cứ làm, nên dĩ
nhiên đã có những câu đối rất dài, số chữ trong mỗi vế lên đến cả 100, 200 chữ.
Nhưng trong thực tế, dù làm để treo nơi Thánh Đường (ngoài cổng ngoài cửa hay
trong Thánh Đường), nơi tư gia (trên Bàn thờ...), rõ ràng không thể và cũng
không nên làm như vậy, thậm chí 13, 14 chữ mỗi vế đã là quá dài (nói cho cùng
chả mấy ai muốn đọc những câu dài quá !). Câu ngắn gọn, ý súc tích, người đọc dễ nhớ, chẳng hạn câu số 7 dưới
đây, là đạt được mục đích của việc làm câu đối. Vì thế ở đây không bàn đến những
câu quá dài (từ 4 đoạn trở lên).
2. Quy tắc tương ứng Bằng – Trắc :
Ở đây
sẽ nói chi tiết về các quy tắc Bằng – Trắc áp dụng cho các câu ngắn
(mỗi vế chỉ có một đoạn), vì đó chính là cơ sở để đặt những câu dài. Với những
câu từ hai đoạn trở lên sẽ giản lược hơn.
2. 1.
Thanh Bằng – Trắc của một tiếng :
Khi
trước chữ viết là Chữ Nho hoặc Chữ Nôm, muốn xác định chữ nào tiếng
Bằng, chữ nào tiếng Trắc là điều khó. Các thầy đồ dạy trẻ phải hướng
dẫn học trò xác định theo nguyên tắc thanh âm hưởng ứng nhau, ấy thế mà học
được rồi thì chẳng ai lẫn lộn. Nay nhờ công lao các Giáo sĩ Tây phương đặt ra
chữ viết mới cho tiếng ta, gọi là Chữ Quốc ngữ, việc xác định Bằng
– Trắc trở nên quá dễ dàng :
-
Thanh Bằng : là những tiếng có chữ viết không dấu hoặc có dấu huyền
;
-
Thanh Trắc : các trường hợp khác (chữ viết có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng).
Quy tắc
Bằng – Trắc nhằm để đọc xuôi miệng mà nghe cũng xuôi tai. Tuy nhiên
quy tắc này không ràng buộc mọi chữ trong câu. Với những câu có từ 7 chữ trở xuống,
người ta áp dụng quy tắc của thơ Đường luật :
nhị
tứ [lục] phân minh,
nhất
tam [ngũ] bất luận,
nghĩa
là :
(các chữ
số) hai tư [sáu] (thì phải) rạch ròi,
(còn
các chữ số) một ba [năm] (thì) không kể.
Trong
thực tế, áp dụng được hoàn toàn đúng như vậy thường khó, nên thậm chí những chữ
nhị tứ vẫn có thể châm chước. Do đó ở dưới đây, nếu chữ nào không kể
thì ghi là b hoặc t (nghĩa là t có thể thay cho b
hoặc ngược lại), chữ nào áp dụng quy tắc rạch ròi thì ghi là B hoặc
T, nhưng chỉ buộc áp dụng chặt chẽ quy tắc đối với những
chữ in đậm B – T mà thôi. Còn những chữ B hoặc
T để trong ngoặc là (B) hoặc (T), thì có nghĩa là vị trí
đó đáng phải dùng tiếng có thanh đó thì mới đúng luật, nhưng có thể châm chước
mà đổi từ thanh B thành T hoặc ngược lại. Nói chung, câu càng ngắn,
quy tắc Bằng – Trắc càng khắt khe ; đồng thời nếu càng áp dụng
đúng quy tắc mà tự nhiên, không gò bó..., thì câu càng hay.
2. 2.
Quy tắc Bằng – Trắc trong câu tiểu đối :
2.
2. 1. Câu hai chữ : Có một kiểu duy nhất là :
t
– T đối với b – B (hoặc ngược lại).
Nhưng
vì chữ số 1 ở mỗi câu không bắt buộc b hoặc t, cho nên có thể có
b
– T đối với t – B (hoặc ngược lại ; những trường hợp câu có số chữ
khác cũng được suy diễn như vậy, xin không viết thêm thành kiểu riêng để khỏi
rườm). Thí dụ dưới đây [c. 7] là một cặp câu hết sức quen thuộc đối với người
Công giáo, vì chính là điều Thiên Chúa dạy cho dân Israel trong Cựu Ước (Đệ
nhị luật 6:5 ; Lê-vi 19:18), và được Chúa Giêsu khẳng định lại
trong Tân Ước (Mat-thêu 22:37-40 ; Mac-cô 22:30-31), hoàn
toàn chỉnh đối, mà khi thay đổi một đôi chữ thì thành những câu vừa lạc lõng với
nhau vừa cả với giáo lý :
[c. 7] :
[c. 7] :
hoặc
[c. 8] :
[c. 8] :
2.
2. 2. Câu ba chữ : Có thể xảy ra các trường hợp :
t
– B – B đối với b – T – T
(hoặc ngược lại)
hoặc t – B – T đối với b – T – B (hoặc ngược lại). Thí dụ
[c. 9] :
[c. 9] :
hoặc
[c. 10] :
2. 2. 3. Câu bốn chữ : dù có đương cú đối hay không thì cũng chỉ có một trường hợp :
b – B – t – T đối
với t – T – b – B (hoặc ngược lại). Như
[c. 11] (7:I:2) :
[c. 11] (7:I:2) :
2. 3. Quy tắc Bằng – Trắc trong câu đối thơ (song quan) :
2.
3. 1. Câu năm chữ (ngũ ngôn) : có hai kiểu
hoặc
: t – B – b – T – T đối với b – T – t – B – B (hoặc ngược lại) ;
thí dụ
[c. 12] (7:II:12) :
[c. 12] (7:II:12) :
hoặc
: t – T – b – B – T đối với b – B – t – T – B (hoặc ngược lại) ;
thí dụ
[c. 13] (7:VI:3) :
[c. 13] (7:VI:3) :
2. 3. 2. Câu sáu chữ (lục ngôn) : nếu không
ngắt thành hai nhóm tự đối nhau trong cùng một vế, thì chỉ có một kiểu B
– T là :
Nếu ngắt thành hai nhóm ba chữ đối
nhau, thì chữ cuối mỗi nhóm buộc phải đối B – T như sau :
hoặc :
t – B – B / b – T – T đối với b – T – T / t – B – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 15] (7:III:12) :
t – B – B / b – T – T đối với b – T – T / t – B – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 15] (7:III:12) :
hoặc :
b – T – B / t – B – T đối với t – B – T / b – T – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 16] :
2. 3. 3. Câu bảy chữ (thất ngôn) : có hai kiểu
:
hoặc b – T – t – B – b –
T – T
đối với t – B – b – T – t – B – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 17] (7:III:12) :
đối với t – B – b – T – t – B – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 17] (7:III:12) :
hoặc b – B – t – T – b –
B – T
đối với t – T – b – B – t – T – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 18] (7:V:7) :
đối với t – T – b – B – t – T – B
(hoặc ngược lại), như
[c. 18] (7:V:7) :
2. 4.
Quy tắc Bằng – Trắc trong câu cách cú (hay tứ lục)
:
Câu tứ lục "chính danh" : mỗi vế có 10
chữ ngắt thành hai đoạn 4 + 6 chữ, do đó quy tắc B – T mỗi đoạn theo
đúng quy tắc B – T của các câu 4 chữ và câu 6 chữ, đồng thời thêm quy tắc
riêng quan trọng của câu tứ lục là : Nếu chữ cuối đoạn 4 chữ là B,
thì chữ cuối đoạn 6 chữ phải là T, và ngược lại. Thí dụ
[c. 19] (7:II:2) :
[c. 19] (7:II:2) :
Đoạn 6 chữ trước đoạn 4 chữ, cũng thế, như
[c. 20] (7:V:1) :
[c. 20] (7:V:1) :
Những câu không đúng số chữ là 4 + 6
(hoặc 6 + 4) mà xê xích ít nhiều, miễn chỉ có hai đoạn, cũng được gọi là câu tứ
lục (dĩ nhiên không phải "chính danh", đã trình bày ở trên) ; đoạn
có mấy chữ thì theo quy tắc áp dụng cho câu có số chữ đó, lại phải luôn theo
quy tắc riêng của câu tứ lục : chữ cuối đoạn này là B, thì chữ
cuối đoạn sau là T, và ngược lại. Thí dụ :
Mỗi vế là một câu 4 + 4
[c. 21] (7:V:6) :
[c. 21] (7:V:6) :
Mỗi vế
là một câu 5 + 5
[c. 22] (7:IV:1) :
[c. 22] (7:IV:1) :
Mỗi vế là một câu 4 + 7
[c. 23] (7:V:2) :
[c. 23] (7:V:2) :
Mỗi vế là một câu 6 + 5
[c. 24] (7:III:5) :
[c. 24] (7:III:5) :
Mỗi vế là một câu 6 + 6
[c. 25] (7:V:1) :
[c. 25] (7:V:1) :
Mỗi vế là một câu 6 + 7
[c. 26] (7:III:5) :
[c. 26] (7:III:5) :
Đôi câu sau đây tuy mỗi vế là một câu 6 + 6, nhưng đoạn 6
chữ đầu lại ngắt thành hai đoạn nhỏ đối nhau, nên mỗi đoạn nhỏ đó theo quy
tắc B – T của câu 3 chữ
[c. 27] (7:III:12) :
[c. 27] (7:III:12) :
2. 5.
Quy tắc Bằng – Trắc trong câu hạc tất (= gối hạc) :
mỗi câu có ba đoạn mà số chữ trong mỗi đoạn không nhất thiết phải bằng nhau.
Quy tắc chung dưới đây không chỉ áp dụng cho câu có 3 đoạn, mà cả cho những câu
có số đoạn nhiều hơn. Tuy nhiên rất không nên làm những câu quá dài. Quy tắc B
– T :
* mỗi đoạn nhỏ ứng với loại câu nào đã kể
trên (2, 3, 4... chữ) thì áp dụng quy tắc B – T của loại câu ấy ;
* nếu chữ cuối đoạn sau chót
là B thì chữ cuối tất cả các đoạn trước đều phải là
T, và ngược lại. Thí dụ
[c. 28] (7:V:3) :
[c. 28] (7:V:3) :
Câu khác
[c. 29] (7:V:3) :
[c. 29] (7:V:3) :
Câu khác
[c. 30] (7:V:3) :
[c. 30] (7:V:3) :
Tất
nhiên quy tắc nào thì cũng có ngoại lệ, cũng có châm chước. Riêng với các Câu
Đối, quy tắc B – T được châm chước hết sức (sau khi đã chọn chữ theo
đúng quy tắc 3 đề cập dưới đây mà không thể tìm chữ nào khác thay thế được) có
thể tóm gọn như sau :
Quy tắc
B – T này chỉ có thể châm chước đến thế là hết, không thể châm chước hơn.
Nếu không bảo đảm điều kiện tối thiểu này, thì không thành câu đối. Vì
thế, nếu hai câu được đặt có vẻ đối ứng với nhau rồi, nhưng đều kết thúc bằng
hai tiếng Bằng cả hoặc hai tiếng Trắc cả, thì dù hai câu đó hay đến
đâu (và tất nhiên vẫn có thể dùng được vì chẳng ai cấm), chúng cứ vẫn không phải
là Câu Đối.
3. Quy tắc tương ứng về bản thân mỗi chữ trong câu
: hai chữ thuộc cùng một vị trí như
nhau trong cả mỗi vế của một cặp Câu Đối phải tuân thủ các quy tắc tương
ứng sau :
3.
1. Tương ứng về từ loại :
Hai
chữ thuộc hai vế đối nhau ở vào cùng một vị trí tương ứng thì phải thuộc cùng một
từ loại. Hiện nay từ loại được phân chia khá chặt chẽ : danh từ, động từ, hình
dung từ..., chứ lúc trước chỉ chia thành hai loại : thực từ và hư từ. Đối chiếu
hai cách phân loại thì có thể nói danh từ (đại danh từ), động từ, hình dung từ,
một số phó từ, thì thuộc loại các thực từ ; còn một số phó từ khác, giới từ, liên từ,
thán từ thì thuộc loại các hư từ. Đối với các cụ ngày xưa, trong việc đối ứng, thì
chỉ cần thực từ đối với thực từ, hư từ đối với hư từ là đủ. Thoạt nghe thì có vẻ
không chặt chẽ, nhưng nếu khảo sát kỹ lại thấy các cụ cũng phân biệt rạch ròi
mà không cần đến những khái niệm ngữ pháp hiện nay. Các kinh trong quyển Thiên
Chúa thánh giáo nhựt khoá có lẽ phải hình thành từ muộn nhất cũng cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong khi đó Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh
Paulus Của xuất bản năm 1895 (cuối thế kỷ XIX), hoặc Dictionnaire
annamite – chinois – français của Gustave Hue xuất
bản năm 1937 (đầu thế kỷ XX, nhưng cũng cách quyển kể trên hơn 40 năm), chẳng hạn,
các từ mục tiếng Việt đều không hề được xác định từ loại. Nhưng có thể xem các
thí dụ trích ra từ Thiên Chúa thánh giáo nhựt khoá
[c. 31] (7:V:7) :
[c. 31] (7:V:7) :
Cứu
kẻ gian nguy khỏi vòng khốn bức,
Giúp
người cô độc đặng thế chững chàng.
Nếu
dùng khái niệm phân loại hiện nay, ta có sơ đồ chung cho cả hai vế như sau :
-
Chữ 1 : động từ (thực từ) ;
-
Chữ 2 : danh từ (thực từ) ;
-
Chữ 3 + 4 : hình dung từ kép (thực từ) ;
-
Chữ 5 : giới từ (hư từ) ;
-
Chữ 6 : danh từ (thực từ) ;
-
Chữ 7 + 8 : phó từ kép chỉ thể cách (thực từ).
Rất
chặt chẽ, không hề có sai khác trong hai vế đối.
Hoặc
thí dụ khác
[c. 32] (7:III:12) :
[c. 32] (7:III:12) :
Lửa
thiêng soi sáng người mê muội ;
Phước
trọng ban cho kẻ mặn nồng.
-
Chữ 1 : danh từ (thực từ) ;
-
Chữ 2 : hình dung từ (thực từ) ;
-
Chữ 3 + 4 : động từ kép (thực từ) ;
-
Chữ 5 : danh từ (thực từ) ;
-
Chữ 6 + 7 : hình dung từ kép (thực từ).
Hoặc
[c. 33] (7:I:7) :
[c. 33] (7:I:7) :
Nọ
hào quang chói lói
Kìa
hang đá rỡ ràng
-
Chữ 1 : phó từ (hư từ) ;
-
Chữ 2 + 3 : danh từ kép (thực từ) ;
-
Chữ 4 + 5 : hình dung từ kép (thực từ).
3.
2. Tương ứng về chức năng văn phạm :
Có thể
phân tích dưới quan điểm ngữ pháp hiện nay các thí dụ khác trong Thiên Chúa
thánh giáo nhựt khoá về chức năng văn phạm của từng chữ trong một cặp câu đối
nhau. Thí dụ
[c. 34] (7:V:1) :
[c. 34] (7:V:1) :
Con
rước Mẹ trọng đà nên trọng ;
Mẹ
thấy Con mừng quá đỗi mừng.
-
Chữ 1 : danh từ, làm chủ từ cho chữ 2 là động từ ;
-
Chữ 2 : động từ, có chủ từ là chữ 1, có đối từ trực tiếp là chữ 3 ;
-
Chữ 3 : danh từ ; láy lại danh từ chữ 1 vế tương ứng ;
-
Chữ 4, 5, 6, 7 : toàn bộ làm trạng ngữ cho chữ 2 ; chữ 4 mỗi vế là trạng từ thể
cách, được láy lại ở chữ 7 cũng vế đó ; chữ 5, 6 là trạng từ mức độ, tu sức cho
chữ 7 và cùng chữ 7 này làm túc từ cho chữ 4.
Thí dụ
khác
[c. 35] (7:V:5) :
[c. 35] (7:V:5) :
Sáng
bấy ! soi như sao Đẩu ;
Ròng
thay ! báu tợ tháp ngà.
-
Chữ 1 : hình dung từ, được chữ 2 là trạng ngữ cảm thán tu sức cho ;
-
Chữ 3 : danh từ (soi ở vế trên không có chức năng động từ mà là danh từ có nghĩa là [sự]
sáng, nhưng không điệp lại chữ sáng nữa) ;
-
Chữ 4 : hình dung từ so sánh, nối giữa chữ 3 với chữ 5, 6 ;
-
Chữ 5, 6 : danh từ kép, có thể coi như kiểu dùng điển tích trong văn chương Nho
– Nôm : hai danh từ kép này có xuất xứ từ kinh Cầu Đức Bà : vế dưới : Đức Bà
như tháp ngà báu vậy, nhưng vế trên không phải ở câu Đức Bà như sao mai
sáng vậy mà lấy ý từ đây và từ Lời
nguyện cuối kinh : ... Đức Mẹ là như ngôi sao chính ngự ở trời bên bắc vậy.
Trong Latin cũng dùng cả stella matutina (= sao mai) và stella maris
(= sao biển, nhưng danh từ này cũng dùng thay danh từ stella polaris =
sao chính cực bắc) để ca tụng Đức Mẹ.
3. 3.
Tương ứng về dùng các dạng tu từ :
Các dạng
tu từ nói nôm na là các kiểu chơi chữ, như điệp từ, dùng từ đồng
âm dị nghĩa, đảo trang, dùng từ láy, dùng điển tích, quán
ngữ, thành ngữ, tập cú... Trong câu đối còn có cả kiểu chiết tự (đối
với những câu Chữ Nho) và cả nói lái, nhưng cả hai kiểu này có lẽ
chưa gặp thấy trong các câu đối Công giáo. Cũng như sự tương ứng về từ loại hoặc
về chức năng văn phạm ở hai mục trên, sự tương ứng về dùng các kiểu chơi chữ
cũng thế : Vế này dùng kiểu chơi chữ gì, ở vị trí nào trong câu, thì vế kia
cũng phải dùng đúng kiểu chơi chữ đó ở cùng vị trí như thế. Dưới đây là một số
thí dụ cho các kiểu quen dùng.
3.
3. 1. Câu dùng điệp từ
[c. 36] (7:III:12) :
[c. 36] (7:III:12) :
Tưởng
đến tôi
rất đỗi dại,
rất đỗi hư,
phạt cho rảnh
mới ưng thửa tội ;
Đâu
đáng Chúa
muôn phần
thương, muôn phần tiếc,
bỏ chẳng
đành lại phải gắng công.
Hai
chữ rất đỗi ở vế trên được láy lại ở đoạn thứ hai, thì ở vế dưới cùng vị
trí đó cũng có hai chữ muôn phần được láy lại.
3.
3. 2. Câu chơi chữ đương cú đối (đối trong cùng một vế)
[c. 37] (7:V:1) :
[c. 37] (7:V:1) :
Xin
Đức Mẹ cầu cho Hội Thánh ở đời
đặng chữ bình an,
hưởng câu
thạnh trị ;
Lạy
Đức Bà thương giúp giáo nhân dưới thế
khỏi đàng tội lỗi,
giữ đức
khiêm nhường.
Cùng ở
vế trên, đoạn thứ hai và thứ ba lại là hai đoạn chỉnh đối với nhau : đặng
/ hưởng, chữ / câu, bình an / thạnh trị, thì
cùng ở vế dưới cũng vị trí tương ứng là hai đoạn khác tự đối nhau : khỏi
/ giữ, đàng / đức, tội lỗi / khiêm nhường,
và lại đối với hai đoạn đã nói ở vế trên.
3.
3. 3. Lại kiểu nữa là dùng từ nước ngoài trong câu đối
[c. 38] (7:V:5) :
[c. 38] (7:V:5) :
Dòng
cả dõi vua Đa-vít ;
Mẹ
là bà thánh An-nà.
Danh
từ riêng phiên âm từ ngoại ngữ, có hai vần là Đa-vít được chỉnh đối bằng
An-nà, bảo đảm cả về luật B – T !
3.
3. 4. Đảo trang : không đặt đúng trật tự văn phạm bình thường. Thí dụ
[c. 39] (7:III:12) :
[c. 39] (7:III:12) :
Xướng bài ca thần Kê-ru-bim
tiếng
đàn, tiếng tiêu hoà êm ái ;
Trổi khúc nhạc thánh Sê-ra-phim
cung
bắc, cung nam cách lạ lùng.
Trong
hai câu này đều dùng lối đảo trang ở đoạn đầu mỗi vế, thứ tự thông thường mỗi
đoạn đó là :
Thần
Kê-ru-bim xướng bài ca...
Thánh
Sê-ra-phim trổi khúc nhạc...
Ngoài
ra, trong đôi câu này còn dùng từ nước ngoài : Kê-ru-bim đối với Sê-ra-phim
; hai chữ này không đúng luật B – T, nhưng ở vị trí có thể châm chước.
3.
3. 5. Câu dùng số đếm
[c. 40] (7:III:11) :
[c. 40] (7:III:11) :
Kính
lạy Một Chúa Ba Ngôi,
rất
linh thánh đời đời hằng có ;
Sinh
dựng muôn loài chín phẩm,
hằng
bảo tồn kiếp kiếp chẳng rời.
Vế
trên dùng các số đếm một và ba ở chữ 3 và 5, thì vế dưới cũng vị
trí đó dùng các số đếm muôn (= vạn) và chín để đối lại. Ngoài ra,
trong hai vế đối, người ta có thể dùng bao nhiêu kiểu chơi chữ cũng được, nên
trong hai câu này ta thấy còn kiểu khác : dùng từ kép đồng thời cũng là từ láy kiếp
kiếp ở vế dưới để đối lại với đời đời ở vế trên.
3.
3. 6. Một kiểu khác là tập ngữ, nghĩa là góp các chữ sẵn chỗ này
nơi kia (đối với Nho học xưa thì thường là trong kinh điển cũ, thơ văn cũ của
những tác gia nổi tiếng). Nếu dùng trọn cả câu thì gọi là tập cú. Nếu dẫn ra từ cổ văn thì gọi là tập cổ. Đối với người Công giáo, Kinh Thánh là kho
tàng dồi dào không những về giáo lý,
đức tin, mà còn là nguồn ý tưởng, văn chương
phong phú. Hơn nữa trong đó, như đã nói trên, không thiếu gì những câu khi đặt
sóng đôi, lại cho những cặp câu đối thật hoàn chỉnh. Tại Nhà lưu giữ hài cốt
đầu tiên của Giáo xứ Nam Đồng, Vũng Tàu, có nề đôi câu đối của người viết bài
này trên hai cột chính cửa cái
[c. 41] :
[c. 41] :
Chúa
chăn nuôi tôi lo gì thiếu thốn ;
Tôi
trông cậy Chúa ắt chẳng hổ ngươi.
Hai
câu này lấy gần như nguyên văn các câu Kinh Thánh : vế trên lấy từ câu Thánh
Vịnh 23:1 (22:1) ; vế dưới là câu Thánh Vịnh 25:3 (24:3).
Những câu dùng các quán
ngữ cũng có thể được coi là thuộc loại tập ngữ. Thí dụ câu như vậy trong Thiên
Chúa thánh giáo nhựt khoá
[c. 42] (7:II:2) :
[c. 42] (7:II:2) :
Dãi gió dầm mưa,
những
thủa tuổi nên năm bảy ;
Ngậm chua nuốt đắng
vừa
khi tác ba mươi ba.
Ở
ngay đầu vế trên dùng dãi gió dầm mưa là một quán ngữ (cũng có dạng khác
: dãi nắng dầm mưa, dãi gió dầm sương...), được đối bằng ngậm chua nuốt
đắng là một biến thể của một quán ngữ khác (dạng thường gặp : ngậm đắng
nuốt cay hoặc ngậm cay nuốt đắng). Trong tiếng Việt có cả hình dung
từ kép chua cay (hoặc cay chua), cay đắng (hoặc đắng
cay), nhưng không thấy có chua đắng. Ở đây tác giả dùng hai chữ chua
và đắng để nhắc lại việc Chúa Giêsu phải nếm dấm chua (xem Mat-thêu
27:48) mật đắng (xem Mat-thêu 27:34) khi chịu khổ hình thập
tự giá.
Ngoài
những kiểu trên, tất nhiên còn nhiều kiểu chơi chữ khác, nhưng vì chưa hẳn
đã thích hợp với các câu đối nhà Đạo, nên xin không bàn thêm.
-xXx-
Linh mục sáng lập giáo xứ Nam Đồng là Cha cố Vicente Nguyễn Hòa Định. Ngài đích thật là một mục tử nhân hậu, suốt đời lo cho đoàn chiên không chỉ về phần hồn, mà cả phần xác. Khi qua đời, thậm chí ngài không có dù chỉ một bộ y phục lành lặn. Nay không riêng giáo dân giáo xứ Nam Đồng, mà cả các giáo xứ khác như Trung Đồng, Thủy Giang, Hải Xuân, Phước Thành... ở Vũng Tàu, Long Kiên (Bà Rịa), Bến Nôm, Cây Gáo (Xuân Lộc)... vẫn nhắc tới ngài với một sự trân trọng quý mến.
Dịp Tết Giáp Dần 1974, người viết bài này có tặng Cha cố Vicente một đôi câu đối viết bằng Chữ Nôm :
[c. 43] Nào màng lạc thú trần gian,
vì một chứ trăm năm rồi cũng hết ;
Chỉ tưởng vinh quang thiên quốc,
dẫu ngàn hay vạn tuổi cứ luôn còn.
Qua mùa Xuân Ất Mão 1975 năm sau – và từ đó trở đi cho đến thời gian gần đây – tại Thánh Đường Giáo xứ Nam Đồng, hầu như mùa Phụng vụ nào trong năm (mùa Vọng, mùa Giáng Sinh, mùa Chay, mùa Phục Sinh), hoặc những dịp đại lễ, một số lễ kính các thánh (bổn mạng Giáo xứ, các giáo họ...), người viết bài này cũng thường làm một cặp câu đối treo trên gian Cung thánh theo các chủ đề mục vụ. Ở đây xin giới thiệu một số trong những câu đối còn nhớ hoặc còn lưu lại.
Mùa
Giáng Sinh
[c. 44] Mọi
dân trên khắp địa cầu
đã thấy ơn cứu độ ;
đã thấy ơn cứu độ ;
Ngôi Lời có từ nguyên thuỷ
nay ở giữa chúng ta. (1994)
nay ở giữa chúng ta. (1994)
Đôi
câu này vế trên lấy gần như nguyên văn câu Kinh Thánh từ Thánh Vịnh 98:3 (97:3) ; vế dưới lấy ý từ đoạn Tin Mừng
Gio-an 1:1-14.
[c. 45] Tỉnh
thức sẵn sàng chờ Cứu Chúa ;
Sửa sang tề chỉnh đón Con
Người. (1995)
Khi về nhận xứ Nam Đồng, Cha cố Gioan
Maria Phạm Anh Thân, cha chính xứ thứ hai của giáo xứ, luôn quan tâm đến đoàn
chiên được giao phó, cách riêng là những gia đình khó khăn, những người già cả,
neo đơn. Ban đầu, thấy có người già lão rách rưới đến nằm nghỉ trưa dưới mái
hiên nhà thờ, ngài thăm hỏi, giúp đỡ. Sau đó, ngài lập ra nhà Dưỡng lão để thu
nhận họ về chăm sóc. Nhà Dưỡng lão của giáo xứ coi như chính thức thành lập từ
năm 1995 và vẫn tồn tại tới nay. Đối với những gia đình khó khăn khác, không kể
là Công giáo hay không, Cha cố Gioan chẳng những kêu gọi sự giúp đỡ của cộng
đoàn giáo xứ, ngài còn có các kế hoạch giúp đỡ cụ thể, hoặc âm thầm đến với họ,
hoặc giúp đỡ chung trong các dịp đặc biệt như Giáng sinh, Tết Nguyên đán, Tết
Trung thu... Ngài còn mở các lớp học tình thương cho con em những gia đình khó
khăn đến học, rồi liên hệ với các trường công lập tại địa phương thu nhận các học
sinh này.
Theo tinh thần của Cha cố, liên tiếp
các năm từ 1996, chủ đề cho câu đối Giáng Sinh luôn hướng về người nghèo :
[c. 46] Là đoàn con cái tội tình,
ta được Chúa thương ở lại ;
Nơi những anh em nghèo khó,
Chúa mong ta tiếp đón về. (1996)
[c. 47] Tin Mừng
cứu rỗi
truyền
rao cho kẻ khó nghèo ;
Mầu
nhiệm nước trời
mặc
khải với người hèn mọn. (1997)
[c. 48] Thương kẻ khó nghèo,
Đức Chúa nên nghèo khó ;
Đức Chúa nên nghèo khó ;
Nêu gương yêu mến,
Thánh Gia trọn mến yêu. (1998)
Thánh Gia trọn mến yêu. (1998)
Năm
1998 này Giáo xứ trang hoàng cổng Nhà thờ với đôi câu đối treo ở hai cột cổng :
[c. 49] Lòng Đức
Chúa yêu thương
các tầng trời ca tụng ;
Ơn
Ngôi Lời cứu độ
toàn cõi đất hân hoan.
Nối
tiếp chủ đề hướng về người nghèo nhân mừng lễ Chúa giáng trần :
con lại khinh người nghèo khó
;
Chúa nêu gương yêu mến,
con chưa sống đức mến yêu.
[c. 51] Chúa đến với đoàn con
đã
nêu gương phục vụ ;
Con mừng sinh nhật Chúa
phải
sống đức yêu thương. (2000)
nên Chúa sinh ra nghèo khó ;
Được Ngài yêu mến,
sao tôi chưa sống mến yêu ? (2002)
[c. 53] Loan báo Tin Mừng
là sẻ chia điều nhận lãnh ;
là sẻ chia điều nhận lãnh ;
Đón mừng Cứu Chúa
phải thi hành đức mến yêu. (2003)
phải thi hành đức mến yêu. (2003)
[c. 54] Sinh ra khốn khó âm thầm,
Chúa muốn được con san sẻ ;
Từ bỏ khoe khoang hợm hĩnh,
con xin học Chúa khiêm nhu. (2004)
Đôi câu sau đây là một biến thể từ đôi câu treo ở hai cột cổng Nhà thờ năm 1998 trên kia :
Đôi câu sau đây là một biến thể từ đôi câu treo ở hai cột cổng Nhà thờ năm 1998 trên kia :
[c. 55] Ngôi Lời ở giữa chúng nhân,
khắp cõi trời thờ kính ;
khắp cõi trời thờ kính ;
An bình xuống cho trần thế,
cả trái đất mừng vui. (2005)
cả trái đất mừng vui. (2005)
Mùa Chay
[c. 56] Người ta còn sống bằng lời Chúa
không chỉ bằng cơm ;
Thống hối hãy nên xé tâm hồn
có đâu xé áo.
Đôi câu này cũng lấy trong Kinh
Thánh : vế trên từ câu Mat-thêu 4:4 ; vế dưới câu Jô-el 2:13.
Xin được nói thêm về đôi câu này.
Xin được nói thêm về đôi câu này.
Nguyên bản dịch trong Sách Bài Đọc
Mùa Chay và mùa Phục Sinh, 1970 (t. 15, 17, 19...), là : Người ta sống
không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Chữ bánh là để dịch panis của
bản Latin (Non in solo pane vivit homo...). Tuy nhiên trong Kinh
Lạy Cha cũng gặp chữ panis này : Panem nostrum
quotidianum da nobis hodie, và hẳn đã làm các đấng các bậc lúng túng khi phải
dịch ra tiếng Việt, vì người Việt dùng bữa thì món cơm là chủ yếu
chứ có phải là bánh đâu. Thử xem Kinh Lạy Cha tiếng Việt trong Thánh
Giáo kinh nguyện [bản chữ Nôm], quyển chi nhất, trang 5b : Kinh
Thiên Chúa sau đây :
Chúng
tôi lạy thiên địa chân Chúa ở trên trời là Cha chúng tôi. Chúng tôi nguyện danh
Cha cả sáng, nước Cha trị đến, vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy. Chúng tôi xin Cha cho chúng tôi hằng
ngày dùng đủ, mà tha nợ chúng tôi bằng chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng
tôi vậy ; xin chớ để chúng tôi sa chưng cám dỗ, bèn chữa chúng tôi chưng sự dữ.
Amen. (xem hình chụp).
Trong
câu in đậm, chẳng thấy chữ nào dùng để dịch chữ panis (panem) cả !
Sau
này (trước Công đồng Vaticanô II), Kinh Lạy Cha có thay đổi một chút. Bản sau
đây căn cứ vào bản Kinh Lạy Cha khảm tại một trong khoảng 150 Kinh Lạy Cha bằng
các ngôn ngữ khác nhau tại Thánh Đường Pater Noster ở Jerusalem,
được biết là do đức cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đặt khắc :
Lạy
Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến,
vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy. Xin Cha cho chúng
tôi rày hằng ngày dùng đủ, và tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có
nợ chúng tôi, lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ, bèn chữa chúng tôi cho khỏi
dự dữ. Amen.
Cũng
như bản cũ thôi.
Đến
sau Công đồng Vaticanô II, được phép dùng tiếng bản xứ trong thánh lễ Missa, Uỷ
ban Giám mục về Phụng vụ Việt Nam dịch bản Sách lễ Rôma mới, ban hành
năm 1971, có Kinh Lạy Cha (t. 532) với dạng gần như hiện nay :
Lạy
Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha
cho chúng tôi hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng tôi, như chúng
tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi, xin chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ, nhưng cứu
chúng tôi cho khỏi sự dữ.
Đến bản
này mới thấy có chữ để dịch panis, nhưng chữ đó không phải là bánh
(như trong Sách Bài Đọc), mà là một danh từ rất chung : lương thực.
Bản dịch Kinh Thánh của Nhóm Phiên dịch các Giờ Kinh Phụng vụ năm 2011
cũng dịch câu in đậm trên hệt như thế (chỉ thay tôi bằng con). Điều
đó quá đúng. Lương thực (chính) với những dân tộc ăn bánh thì dịch panis ra bánh là điều không có gì phải bàn cãi (người Anh còn kiểu nói my bread
and butter [= nhu cầu thiết yếu (về vật chất) của tôi]). Nhưng với những dân
tộc khác như bên Á đông này, thì lương thực (chính) phải là cơm !
Bản dịch Kinh Lạy Cha của cha Nguyễn Thế Thuấn năm 1965 dịch (với riêng
câu in đậm trên) là : Xin cho chúng tôi hôm nay cơm-bánh hằng ngày (cơm-bánh
trong bản dịch của ngài có dấu gạch nối). Vậy thì dịch câu Non in solo pane... mà bỏ hẳn bánh chỉ giữ lại cơm
thì cũng không sai. Vả chăng cơm ở vế trên còn để đối với áo (vestimenta
trong bản Latin) ở vế dưới nữa. Ngoài ra, non ở vế dưới trong bản Latin
(Et scindite corda vestra, et non vestimenta vestra) được dịch bằng lối phủ
định gián tiếp thành có đâu để đối với không chỉ (non solo) của
vế trên.
Mùa
Chay bốn năm sau, câu Jo-el trên được dùng lại với dạng gọn hơn để làm vế đối với
câu tham chiếu sách tiên tri A-mos 5:14, như sau :
[c. 57] Hãy xé
tâm hồn cần chi xé áo ;
Theo đường công
chính, bỏ hẳn đường tà.
Câu khác :
[c. 58] Chúa muốn tình yêu, không cần hi lễ ;
Con thân đất bụi xin hối
lỗi lầm.
Vế trên lấy gần như nguyên câu trong sách tiên tri Hô-sê
6:6.
[c. 59] Vinh
quang trần thế
hư
vô rất đỗi hư vô ;
Thân
phận con người
tro
bụi lại về tro bụi. (1998)
Đôi
câu này vế trên lấy từ Giảng viên 1:2,
vế dưới theo ý của câu Sáng thế 3:19.
[c. 60] Học xót thương cùng Đấng hay thương xót
;
Biết tha
thứ để ta được thứ tha.
Đôi câu này được treo lần đầu vào năm 2002, đến năm
2015 được dùng lại.
Mùa Phục Sinh
[c. 61] Chiên Con chịu hiến tế
đã
cứu chuộc đoàn chiên ;
Tảng đá bị
loại ra
nay
trở nên đá góc. (1996)
Vế trên lấy từ Ca tiếp liên (Sequentia) Chúa Nhật Phục sinh, vế dưới là câu Thánh Vịnh 97:22 (98:22).
[c. 62] Từ máu Chiên Con
chan
chứa nguồn ơn cứu độ ;
Cuối đường
thương khó
rạng
ngời ánh sáng phục sinh. (1997)
Vế trên từ Thư 1 Phêrô 1:18-19, vế dưới từ Tin
Mừng Luca 24:26.
Các câu đối mùa Phục sinh khác :
[c. 63] Tin Mừng cứu độ
món
quà không để giữ riêng ;
Ánh sáng phục
sinh :
ơn
gọi phải nên người mới. (1998)
[c. 64] Trong
máu Chiên hiến tế
Chúa
Cha hoà giải tội nhân ;
Nhờ
nước mạch tái sinh
tín
hữu trở nên nghĩa tử. (1999)
[c. 65] Hãy tìm kiếm Nước Trời
nơi
Chiên Con hiển trị ;
Xin canh
tân con cái
nhờ
mầu nhiệm Phục Sinh. (2001)
Vế trên lấy gần nguyên văn trong thư Cô-lôs-sê 3:1-4
Vế trên lấy gần nguyên văn trong thư Cô-lôs-sê 3:1-4
Một cặp nữa đã trình bày ở bài viết
về THƯỜNG SINH VỚI TRƯỜNG SINH :
[c. 66] Ánh sáng khải hoàn cuối đường thập giá ;
Chiên Con hiến
tế mở lối thường sinh.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa (tại Nam Đồng thường cũng là
thánh lễ tổ chức cho các thiếu nhi trong Giáo xứ rước Lễ lần đầu) :
[c. 67] Mình Máu Ngôi Lời
vì
mến yêu nên chia sẻ ;
Tâm hồn
thơ bé
đem
trong trắng để tiến dâng. (14-6-1998)
[c. 68] Tấm bánh trắng bẻ ra
liên kết muôn người nên một ;
Dòng máu hồng chảy xuống
giao hòa Thiên Chúa cùng ta. (1999)
[c. 68] Tấm bánh trắng bẻ ra
liên kết muôn người nên một ;
Dòng máu hồng chảy xuống
giao hòa Thiên Chúa cùng ta. (1999)
Đôi câu đối dịp lễ ban bí tích Thêm
Sức cho các thiếu nhi trong Giáo xứ năm 1996 :
[c. 69] Thương đoàn tín hữu
ơn
thiêng Cha đổ xuống bảy nguồn ;
Có Chúa
Thánh Thần
phúc
thật con chu toàn tám mối.
Câu đối về Xuân – Tết thì nhiều, kể
từ năm đầu tiên có câu đối trong Thánh Đường Giáo xứ là năm 1975 trở đi, gần
như năm nào cũng có câu đối tết. Nhưng vì không được lưu lại, nên không thể nhớ
hết. Ở đây chỉ dẫn ra một số.
[c. 70] Chúa xuống xuân hồng
tô
điểm vũ hoàn rực rỡ ;
Con dâng
năm mới
chúc
khen danh thánh diệu kỳ.
Câu đầu tiên này được dùng lại có lẽ
hơn một lần nữa.
Đôi câu đối Xuân năm 1980 :
Đôi câu đối Xuân năm 1980 :
[c. 71] Noi dấu Mẹ nhân lành
mến
Chúa yêu người là phúc thật ;
Sống niềm
tin bền vững,
dậy
men mặn muối để xuân nồng.
Mến Chúa yêu người
vốn là hai giới răn cột trụ của người Công giáo, trong khi men (phải làm
dậy bột, xem Mt 13:33) và muối (phải mặn, xem Mt
5:13) đều là những điều Chúa Kitô đòi hỏi nơi những ai muốn theo Người.
Năm 1994, đôi câu trên được viết lại
với biến thể khác :
mến
Chúa yêu người, tròn phúc thật ;
Sống niềm
tin thật
trong thôn ngoài xóm ngát xuân hiền.
Đôi câu này dùng lối chơi chữ điệp :
chữ “thật” cuối vế trên được lặp ở cuối
đoạn đầu vế dưới ; đối lại, chữ “hiền”
cuối vế dưới cũng là chữ điệp của chữ cuối đoạn đầu vế trên.
Những câu đối Tết khác :
vũ
trụ tưng bừng đổi mới ;
Năm tươi
mới chứa chan hồng phúc
tâm
tư hoan hỉ giải hoà. (1995)
Đôi câu trên đây cũng chơi chữ theo
kiểu điệp tự : láy các chữ “hòa” và “mới” ở các vị trí tương ứng.
Đôi câu khác :
[c. 74] Men
yêu mến dậy hương
khơi
nguồn chân phúc ;
Lời Tin Mừng
toả sáng
rạng
ánh thiều xuân. (1996)
Năm 1998 được thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II ấn định là năm Chúa Thánh Thần,
năm thứ hai chuẩn bị đón Năm Thánh 2000. Câu đối Tết là :
[c. 75] Trong Thần khí Ngôi Ba
muôn
vật chan hoà mạch sống ;
Có Thánh Thần
Thiên Chúa
mùa
xuân dào dạt tình yêu.
Đôi câu khác gọn hơn, dự định dán
vào hai tấm bảng treo suốt năm trên gian Cung thánh nêu chủ đề học hỏi trong
năm theo ý thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II, nhưng lại không dán nữa :
[c. 76] Thần khí đổ tình yêu phúc thật ;
Thánh Linh
ban sức sống xuân tươi. (1998)
Năm 1999, năm kính Chúa Cha, năm thứ ba chuẩn bị đón Năm Thánh 2000 :
đâu
có tình yêu là có Chúa ;
Xuân nở
hoa đức mến
cứ
thêm đức mến lại thêm xuân.
Thời gian từ tháng 10-2002 đến tháng
10-2003 được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II chọn làm năm Thánh Mẫu Mai khôi. Câu đối treo dịp tết 2003 :
[c. 78] Sao Biển rạng ngời
soi
nẻo chính về bến phúc ;
Chuỗi hồng mầu
nhiệm
đỡ
thuyền con giữa sóng đời.
Sao
Biển, Sao Bắc (Sao Đẩu, Bắc Đẩu), Sao Mai là những kiểu nói chỉ Đức Mẹ
Maria, rất quen thuộc trong Hội Thánh, đã được trình bày ở câu 35 trên. Trong Kinh Cầu Đức Bà còn có câu : Đức Bà như hoa hồng mầu nhiệm (Lat. : Rosa mystica). Câu này trong bản Chữ Nôm là 德 婆 如 花 紅 牟 冉 . Kinh Cầu Chữ Nho là 玄 義 玫 瑰 mà nhiều người
Công giáo Việt Nam vẫn còn thuộc : Huyền
nghĩa Mai khôi (hoặc Môi khôi). Tuy nhiên cả mai khôi lẫn hoa hồng hay được đọc chệch đi là mân côi hoặc văn côi / hoa hường.
Đó là vì tự dạng của 玫 [mai / môi] với 玟 [mân / văn] rất giống nhau, không để ý dễ sai lầm, kiểu như chữ tác 作 đọc thành chữ tộ 祚 , chữ ngộ 遇 đọc ra chữ quá 過 vậy. Lâu dần cái sai quá mạnh, át cả cái đúng đi. Còn hồng đọc thành hường là do chuyện kị húy, cũng lâu dần thành quen thôi. Chuỗi hồng trước kia được gọi là chuỗi rô-sa-ri-ô theo Lat. là rosarius, chữ này vốn có nghĩa là vườn
hoa hồng, tràng hoa hồng, dùng chỉ các kinh Kính Mừng được giáo hữu đọc kết liền
với nhau thành chuỗi tượng trưng cho tràng hoa hồng dâng kính Đức Mẹ là một đóa
hồng tuyệt mĩ. Kể ra thì dùng Đóa Hồng...
ở vế dưới có lẽ đúng hơn, nhưng vì năm này cổ vũ việc lần chuỗi kính Đức Mẹ,
nên Đóa Hồng... được thay bằng Chuỗi hồng... Dẫu sao thì vế này có
nghĩa là nhờ dụng cụ là chuỗi hồng mầu
nhiệm mà Đức Mẹ nâng đỡ cho thuyền
con vượt qua sóng gió bão táp chốn
khách đày này.
Câu đối Tết năm 2004 :
rực
rỡ xuân tươi khắp xứ ;
Lòng
thương rộng mở
chứa
chan phúc thật muôn nhà.
Thời gian tháng 10-2004 đến tháng
10-2005 được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II chọn là Năm Thánh Thể. Đề tài học tập trong năm là “Giáo hội sống mầu nhiệm Thánh Thể” (xem tông thư Mane nobiscum Domine [= Lạy Chúa hãy ở lại
với chúng con], 7-10-2004, số 2). Tiêu ngữ này (dĩ nhiên là trong tiếng Việt)
được dùng nguyên vẹn làm vế thứ hai trong đôi câu đối Tết treo tại Thánh Đường
năm 2005 :
[c. 80] Chiên Con ban Bí tích Tình Yêu ;
Giáo hội
sống mầu nhiệm Thánh Thể.
Câu đối Tết năm 2007 :
Câu đối Tết năm 2007 :
[c. 81] Chúa là hoan lạc tuổi xuân con
lại
tặng ban Lời hằng sống ;
Con được
dồi dào ơn phúc Chúa
phải
chu toàn đức mến yêu.
Đến xuân 2015, ba ngày đầu năm âm lịch
đều có câu đối :
Ngày Mồng Một – cầu bình an cho Năm
Mới :
[c. 82] Chúa đổ ơn : Xuân tràn phúc lộc ;
Người
thương nhau, tuổi thắm bình an.
Ngày Mồng Hai – cầu cho tổ tiên, ông
bà, cha mẹ :
[c. 83] Tiên tổ gieo trồng cây phúc đức ;
Cháu con
vun đắp gốc yêu thương.
Ngày Mồng Ba – thánh hoá công ăn việc
làm :
[c. 84] Nén bạc sinh lời khi phục vụ ;
Việc làm
kết trái bởi yêu thương.
Lễ Thánh Gia – Bổn Mạng Giáo xứ
[c. 85] Yêu Chúa tình yêu
trong tiệc thiêng mầu nhiệm ;
trong tiệc thiêng mầu nhiệm ;
Sống Lời
hằng sống
theo gương sáng Thánh Gia. (1996)
theo gương sáng Thánh Gia. (1996)
Tháng Năm – tháng hoa
[c. 86] Hoa lòng ngát toả hương
con thảo tiến dâng Đức Mẹ ;
Sao biển hằng
soi lối
Mẹ
hiền che chở đoàn con.
Đôi câu trên đây, không nhớ treo vào
năm nào, cũng chơi chữ điệp : láy “Mẹ”
và “con”.
Câu dưới đây dùng dạng điệp từ tương
tự :
trong sạch, đơn sơ, ngay thẳng ;
Mẹ dạy con muôn
đức :
mến
yêu, vâng phục, cậy tin. (1999)
Đôi câu treo dịp tháng hoa năm 2015 :
Đôi câu treo dịp tháng hoa năm 2015 :
[c. 88] Đoá hoa yêu mến con dâng tiến ;
Sao Biển
rạng ngời Mẹ dẫn soi.
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời
[c. 89] Kính mừng Đức Mẹ cao quang
đã
khải hoàn trên thiên quốc ;
Cứu vớt đoàn
con bé nhỏ
đang
chao đảo giữa biển đời. (1996)
Năm 1998 được HĐ GM VN chọn làm năm Thánh Mẫu La Vang (từ 1-1-1998 đến
15-8-1999). Câu đối treo lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời năm 1998 :
[c. 90] Quê thật trời cao,
Đức Mẹ khải hoàn hồn xác ;
La Vang
xóm nhỏ,
Nữ Vương phù hộ đoàn con.
Câu kết thúc Năm Thánh Mẫu La Vang, ngày 15-8-1999 :
Nữ Vương phù hộ đoàn con.
Câu kết thúc Năm Thánh Mẫu La Vang, ngày 15-8-1999 :
[c. 91] Hồn xác lên trời,
Thánh Mẫu dư đầy ơn cả ;
Thánh Mẫu dư đầy ơn cả ;
La Vang
xuống phúc,
Đức Bà phù hộ đoàn con.
Đôi câu năm 2005 :
Đức Bà phù hộ đoàn con.
Đôi câu năm 2005 :
[c. 92] Kính mừng Mẹ khải hoàn
muôn huy hoàng cõi phúc ;
muôn huy hoàng cõi phúc ;
Đoái
thương con lưu lạc
ngàn sóng gió biển đời.
Đôi câu trên đây sau được viết gọn lại :
ngàn sóng gió biển đời.
Đôi câu trên đây sau được viết gọn lại :
[c. 93] Kính mừng Mẹ khải hoàn quê phúc ;
Cứu vớt
con chìm đắm biển đời. (2015)
Tháng Mười – tháng Môi Khôi
[c. 94] Con thân lữ thứ nhọc nhằn
Mẹ
luôn dắt dìu che chở ;
Con gặp gian nan đau khổ
Mẹ
hằng nâng đỡ ủi an. (1997)
[c. 95] Kính mừng Đức Mẹ đầy ân
đã
cưu mang Con Một Chúa ;
Cứu giúp
đoàn con yếu đuối
đang
bơ vơ chốn khách đày. (1998)
[c. 96] Dâng Mẹ hằng ngày :
chuỗi hồng mầu nhiệm ;
Soi con từng
bước :
Sao Bắc rạng ngời. (1999)
Con lần chuỗi mỗi ngày dâng lên Mẹ
vì yêu Mẹ, trong khi lúc nào Mẹ cũng dõi theo con từng bước trong cuộc sống vì
thương con.
Lễ Thánh Giuse Thợ + Mình Máu
Thánh Chúa (năm 1999)
Đôi câu dưới đây được làm nhân dịp mừng
lễ thánh Giuse Thợ, đồng thời tổ chức cho các em thiếu nhi xưng tội rước Lễ lần
đầu năm 1999 tại Giáo xứ Trung Đồng, theo yêu cầu của Cha cố Gioan Maria (khi ấy
ngài quản nhiệm thêm giáo xứ Trung Đồng) :
[c. 97] Mọi ngày chúc tụng danh Người
đã vác gánh đời nặng nhọc ;
Muôn thuở
ngợi khen ơn Chúa
thương
ban Mình Thánh giao hoà.
Lễ Truyền Tin + Thánh Giuse - 1997
[c. 98] Tình thương Đấng Tối Cao
đời đời luôn bền vững ;
đời đời luôn bền vững ;
Dòng dõi
người công chính
mãi mãi được bảo tồn.
mãi mãi được bảo tồn.
Lễ hai Thánh Tông đồ Phêrô – Phaolô
[c. 99] Đá móng Phêrô
dựng
xây Hội Thánh tông truyền ;
Giáo huấn
Phaolô
bảo
vệ đức tin duy nhất.
[c. 100] Bỏ lưới Galilê
nên
Đá móng dựng xây Hội Thánh ;
Buông
gươm Damas(cus)
đem
Tin Mừng giảng dạy muôn dân.
Hai câu này, và câu mừng hai thánh là
hai mẹ con dưới đây, có dùng đến tiếng nước ngoài. Viết
lại đôi câu 100 này, các mẫu tự cus để trong ngoặc là muốn cho cân
về âm đọc mà thôi (vì thực tế, hai địa danh này trong các ngôn ngữ hầu như có số
vần khác nhau : Lat. : Galilæa – 4 vần / Damascus – 3 vần ; F. : Galilée – 3 vần
/ Damase – 2 vần, Es. : Galilea – 4 vần / Damasco – 3 vần...). Còn trong câu đối, Galilê
và Damas được dán liền mạch không có dấu gạch nối, thì cũng chỉ coi là
hai danh từ.
Thánh Monica – Augustinus - 2001
[c. 101] Vững chí cậy ơn thiêng
Monica
nêu gương hiền mẫu ;
Hồi tâm
theo nẻo chính
Augustin nên bậc thánh nhân.
Lễ
Ngân khánh Linh mục – Cha cố Gioan Maria Phạm Anh Thân (21-6-1998) :
[c. 102] Ngài
sai tôi báo Tin Mừng
cho
những người nghèo khó ;
Thầy
chọn con trong trần thế
để
nên chứng Phúc âm.
Cha cố Gioan Maria thi hành sứ vụ tại giáo xứ Nam Đồng từ
1992 cho đến khi từ trần tại đây năm 2005. Trong đôi câu trên, vế đầu là câu Tin
Mừng Lu-ca 4:18, cũng là câu I-sa-i-a 61:1 ; vế sau từ câu Tin Mừng
Gioan 15:16.
Lễ mở tay – Cố Lm Phaolô Phạm Trọng
Phương
[c. 103] Chúa cất nhắc tôi từ nơi đất bụi ;
Tôi phụng
sự Chúa trong nỗi hân hoan.
Cố linh mục Phaolô Phạm Trọng
Phương từng là thầy giúp xứ tại Giáo xứ Nam Đồng từ tháng 7 năm 1993. Đến ngày
25 tháng Một (lễ kính thánh Phaolô Tông đồ trở lại), năm 1999, ngài được thụ
phong linh mục. Sau đó ngài được bổ nhiệm là linh mục chính xứ Hoà Thuận, Giáo
phận Xuân Lộc (sau này, cũng như Giáo xứ Nam Đồng, được tách ra khỏi Giáo phận
Xuân Lộc và thuộc Giáo phận Bà Rịa). Đến năm 2008, ngài được bổ nhiệm về lại
giáo xứ Nam Đồng làm linh mục chính xứ thay cha Đa-minh Ngô Ngọc Giáp.
Sau khi thụ phong linh mục, ngài đã
cử hành lễ mở tay tại Giáo xứ Nam Đồng ngày 26 tháng Một, năm 1999. Đôi câu đối
trên treo trong thánh lễ mở tay, vế trên lấy từ câu Thánh Vịnh 112:7 (113:7) ; vế dưới là tiêu hiệu linh mục ngài chọn khi thụ phong. Nguyên câu
này cũng là một câu Thánh Vịnh : câu 99:2 (100:2) ; trong Latin nó ở dạng mệnh lệnh : servite Domino in laetitia [= hãy phụng sự
Chúa trong niềm hân hoan]. Còn câu tiếng Việt cha Phaolô chọn là : Phụng sự
trong hân hoan, và vì đây là tiêu hiệu của ngài, nên có thể hiểu chủ từ của
động từ phụng sự chính là Cha Phaolô,
do đó trong vế đối dùng chữ tôi, láy lại tôi ở vế trên, và dùng lại
Chúa trong câu Thánh Vịnh làm đối từ trực tiếp, cũng láy lại từ vế trên,
xếp vào các vị trí ứng nhau trong hai vế.
Lễ giỗ đầu – Cố Lm Gioan Maria Phạm Anh Thân – 2006
[c. 104] Trung
trinh yêu Chúa đến tàn hơi
giờ
luôn mãi ở trong thánh điện ;
Tận
tuỵ thương người không tiếc sức
nay
thảnh thơi lên tới cao sơn.
Lễ
Các Thánh
[c. 105] Họ
ra trước ngai vàng
từ
khổ đau to lớn ;
Người
được lên núi thánh
đều
lòng trí thẳng ngay. (1995)
Cả
hai câu lấy từ Bài đọc, Đáp ca trong
Thánh lễ hôm đó. Vế trên từ sách Khải huyền
7:14, vế dưới từ Thánh Vịnh 23:3-4.
Tháng
11 – tháng cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời
[c. 106] Con
người cũ chịu thập hình
huỷ
diệt xích xiềng tội lỗi ;
Thành
thánh mới nơi thiên quốc
tuôn
trào nguồn mạch tác sinh.
Vế
trên lấy từ thư Rô-ma, 6:6. Vế dưới từ
Khải huyền, các đoạn 21, 22 hoặc tiên tri Ê-zê-ki-el đoạn 47. Đôi câu này
không nhớ treo vào năm nào.
Đôi
câu sau đây được treo từ 2-11-1995 đến suốt tháng (riêng ngày 1-11 năm này đã treo đôi câu số 105
trên) :
[c. 107] Gia
nghiệp ngàn đời
ban
tặng người được Cha chúc phúc ;
Ánh
quang muôn thuở
chiếu
soi hồn những kẻ tin lời.
Vế
trên từ Tin Mừng Mat-thêu 25:34, vế
dưới từ sách 4 Esdras 2:35.
Xin
được nói đôi chút về quyển 4 Esdras.
Đây là một trong số các sách Ngoại thư quy (tiếng Anh : extra-canonical books), dù có trong bản
dịch Latin của thánh Hiêrônimô (các bản dịch Kinh Thánh Công giáo tiếng Việt đều
không có). Sách này là sách Ngoại thư quy
duy nhất được trích đọc, và chỉ dùng có 4 câu là các câu 2:34, 35, 36 và
37. Trong 4 câu này, các câu 34 và 35 rất quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam,
cả bản văn bằng Việt ngữ : Lạy Chúa, xin
cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi trên
họ, cũng như bản văn Latin : Réquiem ætérnam dona eis, Dómine, et lux perpétua lúceat eis, vì theo nghi thức Thánh Lễ cũ (trước Công đồng
Vaticano II), các câu đó được hát đi hát lại trong Thánh lễ An táng (và trong lễ
Giỗ, lễ Cầu cho các linh hồn thường ngày) : Ca Nhập lễ, Ca Tâm niệm (sau Bài
Thánh thư), câu kết của bài hát khi làm phép huyệt mộ, lời xướng đáp của chủ sự
với cộng đoàn trước hạ huyệt. Sau Công đồng, các câu này vẫn dùng làm Ca Nhập lễ
trong thánh lễ an táng cũng như trong Lễ nhì ngày 2-11, và cũng trong Lễ nhì
đó, hai câu này còn được dùng làm Ca Hiệp lễ theo tự đảo lại : 4 Esd 2:35 và 34. Hai câu tiếp theo, 4 Esd
2:36-37, trước Công đồng dùng làm Ca Nhập lễ của ngày Thứ Ba sau Chúa Nhật Hiện
xuống, sau Công đồng được dùng làm Ca Nhập lễ trong Chúa Nhật tuần II mùa Phục
sinh.
Đôi
câu đối trên đây đến năm 1997 được viết gọn hơn thành :
[c. 108] Gia
nghiệp tặng ban người mến Chúa ;
Ánh
quang soi chiếu kẻ tin Lời.
Đôi
câu khác treo trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn :
[c. 109] Từ vực
thẳm sâu
con
hướng tâm hồn lên Chúa ;
Về
quê phúc thật
Chúa
là gia nghiệp của con.
Câu đối
này cũng được làm theo lối tập cú. Vế trên là câu Thánh Vịnh 25 (24):1. Vế dưới : Thánh Vịnh 16 (15):5.
Trướng
tang Giáo xứ Nam Đồng
Năm
2000, Giáo xứ may một bộ liễn trướng dùng trong các dịp tang. Liễn gồm hai đôi
thêu chữ chân phương rõ ràng, không dùng kiểu chữ giả triện, hoặc kiểu giả
thảo (mà thường được gọi hoặc "tự phong" cách "giả danh" là "chữ
thư pháp" !) :
[c. 110] Họ
đến ngai Cha từ thống khổ ;
Ai
lên núi Chúa phải ngay lành.
Đôi câu này là đôi câu treo dịp lễ Các Thánh 1995 (c. 105 trên) được viết lại.
Đôi câu thứ hai trong bộ liễn :
Đôi câu này là đôi câu treo dịp lễ Các Thánh 1995 (c. 105 trên) được viết lại.
Đôi câu thứ hai trong bộ liễn :
[c. 111] Con
hướng linh hồn lên tới Chúa ;
Ngươi
về thiên quốc ở cùng Ta.
Đôi câu này, cũng như đôi câu trên, đều thuộc loại tập cú. Vế trên : lấy
trọn câu Thánh Vịnh 24:1 (25:1) ; vế dưới : lời Chúa Giêsu nói với
người tử tội cùng chịu treo thập tự giá có lòng thống hối : Quả thật ta bảo
ngươi : ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên quốc làm một cùng ta, Tin Mừng Luca
23:43.
Khai
mạc Năm Thánh Giáo Xứ
Đôi
câu treo nhân dịp khai mạc Năm Thánh mừng 50 năm thành lập Giáo xứ, mà
thánh hiệu là Thánh Gia Thất, đồng thời là Năm Thánh ngoại thường Lòng
Thương Xót của Giáo hội hoàn vũ (2015 – 2016) :
[c. 112] Vâng lời
Thiên Chúa Cha : thương xót ;
Noi
dấu Gia đình Thánh : cậy tin.
Năm Đức Tin 2012 - 2013
[c. 113] Lời Thiên Chúa loan xa
cho Danh Thánh rạng ngời khắp thế ;
Cửa Đức Tin rộng mở
để đoàn con nhận lãnh muôn ơn.
Năm Đức Tin 2012 - 2013
[c. 113] Lời Thiên Chúa loan xa
cho Danh Thánh rạng ngời khắp thế ;
Cửa Đức Tin rộng mở
để đoàn con nhận lãnh muôn ơn.
-xXx-
Sau đây, xin lục lại bài Chúc Xuân Ất Dậu 2005 của cùng người viết, phần đầu
là lời cảm tạ dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa, tản văn, phần sau gồm toàn những cặp
câu đối chúc xuân các vị : Cha Chính xứ Gioan Maria, Cha Phụ tá Phaolô, (đây
là Cha Phaolô Nguyễn Văn Châu, linh mục dòng Chúa Cứu thế, vốn là giáo dân giáo
xứ Trung Đồng, thụ phong ngay ngày đầu tiên của thế kỉ mới, 1-1-2001, được cử về
giúp Cha cố Gioan Maria trông coi hai giáo xứ Nam Đồng và Trung Đồng), quý Soeur
Đa-minh (vốn đã liên tục giúp giáo xứ từ những ngày đầu lập xứ), các giới, các hội đoàn, ban Hành giáo Giáo
xứ. Nguyên văn :
Kính
lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Thiên Chúa muôn trùng cao cả, chí thánh, chí
tôn, Chúa vừa ban cho chúng con trải qua giờ khắc giao thừa để đón nhận thêm một
mùa Xuân mới. Những xao xuyến bồi hồi trong tâm tư chúng con vừa tạm lắng, để
giờ đây, trong ngôi thánh đường thân yêu, dù đơn sơ khiêm tốn, nhưng lại là nơi
cực thánh hơn bao công trình bề thế, vì là nơi Chúa Tể càn khôn náu thân, chúng
con tụ họp quây quần bên Chúa, cùng nhau thưa lên Chúa tiếng gọi "Cha
ơi", cùng nhau dâng lên Chúa lời ngợi khen, chúc tụng, tôn vinh, tri ân và
cảm mến.
Chúng
con cảm tạ Thiên Chúa Cha toàn năng vô đối, vì tình yêu thương đã tác tạo thế
gian, lại dựng nên chúng con làm người giống hình ảnh Chúa, linh ư vạn vật, chỉ
kém các Thiên Thần một mảy may.
Chúng
con cảm tạ Chúa Giêsu Kitô Thiên Chúa Ngôi Lời, vì tình yêu thương đã nhập thể,
để không chỉ một lần hiến tế trên thập giá, mà còn hiến thân làm thần lương
nuôi dưỡng chúng con trên đường lữ thứ.
Chúng
con cảm tạ Thánh Thần Thiên Chúa Ngôi Ba, Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, vì
tình yêu thương đã tác sinh muôn vật, ban sự sống cho cỏ cây hoa lá đâm chồi nảy
lộc, cho chim bay trên trời, cá lội dưới nước, muông thú chạy nhảy ngoài đồng nội,
tất thảy đều là quà tặng cho loài người chúng con.
Muôn
muôn lạy Chúa, Đấng vô thuỷ vô chung, Đấng mà trời đất chứa chẳng hết, chỉ vì
tình yêu mà nay đành chịu thời gian và không gian giam hãm, biến hình trong tấm
bánh, ngự nơi nhà tạm đơn sơ. Muôn lạy Chúa, chúng con mọn hèn, cảm tạ sao cho
đủ ! Chúng con chỉ xin làm một nốt nhạc nhạt mờ, hay có lẽ chỉ làm một dấu lặng
nhỏ nhoi trong bản đại hoà ca của đất trời, của vũ trụ, để ca tụng tình yêu
thương không bờ bến Chúa dành tặng chúng con. Chúng con thành khẩn nguyện cầu
Chúa thương chúc lành, thánh hoá cho những ước nguyện đầu Xuân của chúng con.
Thân
thưa Cha Xứ muôn vàn kính yêu,
Cộng
đoàn chúng con cũng phải cảm ơn Cha, vì chính qua Cha, vị Linh Mục của Chúa
Ki-tô, mang phẩm hàm của thượng tế Mel-ki-sê-đê, mà lời hứa Thiên Chúa đất trời
đến ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế trở thành sự thực. Ngày đầu Xuân mới,
chúng con xin kính chúc Cha :
[c. 114] Tinh
thần minh mẫn, sức khoẻ kiện khang,
nước
mạch thần lương :
Thánh
Thể một tay ban phát khắp ;
Tình
mến dạt dào, lòng nhân quảng đại,
đồng
xanh ân sủng,
đoàn
chiên hai xứ dắt đưa về.
Chúng
con cũng xin kính chúc Cha Phụ tá Phao-lô :
[c. 115] Thánh
Bổn mạng đã nên gương :
rong
ruổi mọi nẻo đường,
Lời
Hằng Sống rao truyền không quản ngại ;
Người
vô hạnh cùng làm bạn,
miệt
mài bao ngày tháng,
ơn
Thánh Thần tuôn đổ chẳng hao vơi.
Chúng
con lại xin kính chúc Bà Bề trên và quý Dì Đa-minh, cùng quý Dì hiện diện
nơi đây :
[c. 116] Gia
nghiệp là Đức Chúa,
sắt
son trung tín hiến dâng ;
Thân
quyến chính tha nhân,
mau
mắn ân cần phục vụ.
Kính
thưa cộng đoàn, thay mặt Ban Hành giáo, chúng tôi xin kính chúc quý cụ Cao
Niên :
[c. 117] Sống
Tin Mừng chẳng lo âu,
trường
thọ càng thêm hồng phúc ;
Làm
việc lành không mệt mỏi,
cao
niên mà vẫn thanh xuân.
Xin
kính chúc quý Hiền Mẫu và quý Gia Trưởng :
[c. 118] Chung
tay xây đắp gia đình,
chồng
thuận, vợ hoà,
con
cái thảo hiền ngoan ngoãn ;
Góp
sức vun bồi làng xóm,
men
nồng, muối mặn,
sáng
đèn soi rọi toả lan.
Xin
thân ái chúc các Bạn Trẻ :
[c. 119] Tuổi
xanh vững niềm tin,
đi
vào đời, đi với Chúa ;
Sức
trẻ tràn nhựa sống,
dám
hi sinh, dám quên mình.
Lại
xin Chúa ban cho các Thiếu Nhi trong Giáo xứ :
[c. 120] Trắng
trong tựa giọt sương mai,
nhỏ
bé, đơn sơ,
yêu
kính Giê-su Thánh Thể ;
Rạng
rỡ như tia nắng sớm,
chuyên
cần, hiếu đễ,
đỡ đần cha mẹ, anh em.
Xin kính chúc Huynh
đoàn Giáo dân Đa-minh, Hội Cầu nguyện, các bạn Giáo lí viên :
[c. 121] Thấy
Chúa trong mọi người,
giúp
đỡ chẳng nề vất vả ;
Yêu
người vì mến Chúa,
dấn
thân không ngại nhọc nhằn.
Xin
kính chúc hai ca đoàn, hội kèn, đội trống trắc :
[c. 122] Rộn
ràng tiếng nhạc,
ngợi
khen Đức Chúa uy quyền ;
Réo
rắt lời ca,
phục
vụ mọi người thân ái.
Xin
thay mặt Ban Thường vụ, xin kính chúc toàn thể Ban Hành giáo Giáo xứ :
[c. 123] Đầy
tớ bất tài,
nhờ
ơn Chúa hộ phù,
gắng
sức chu toàn bổn phận ;
Bộc
công vô dụng,
được
lương thần nuôi dưỡng,
quyết
tâm phục vụ cộng đoàn.
Sau hết,
xin kính chúc toàn thể cộng đoàn Giáo xứ Nam Đồng chúng ta luôn được :
[c. 124] Noi
gương mẫu Thánh gia : tin, cậy ;
Sống
hiến chương Thiên quốc : mến yêu.
Giờ
đây, thân thưa Cha Xứ muôn vàn kính mến, cộng đoàn chúng con kính dâng lên Cha
những đoá hoa Xuân đượm muôn hương mới. Kính xin Cha nhận lấy cùng với những lời
chúc mừng của đoàn con.
-xXx-
Nhân
thể xin lục lại đây bài Chúc Xuân Quý Mùi 2003 cũng của cùng người
viết. Bài này làm theo thể văn vần (lục bát). Trong bài có lời chúc hai Cha khác : Cha Phaolô là Cha
Nguyễn Văn Châu đã nói trên, còn Cha Giuse là Cha Trịnh Văn Thuận, vốn cũng từng
là thầy giúp xứ Nam Đồng từ năm 2000, thụ phong linh mục ngày 11-4-2002, sau đó
vẫn tiếp tục giúp Cha cố Gioan cho đến khi đi nhận xứ mới vào tháng 3 năm 2003.
Ánh Xuân rực rỡ huy hoàng,
Hương Xuân thanh khiết toả lan đất trời.
Họp nhau đây trước Thánh Đài,
Đoàn con thành kính dâng lời tạ ân :
Chúa ban thêm một mùa Xuân,
Điểm tô vạn vật thanh tân yêu kiều.
Khẩn cầu Thiên Chúa tình yêu
Tác thành, thánh hoá bao điều nguyện xin.
Xuân về kính chúc Cha hiền :
Chúa ban ân sủng : phúc diên, thọ trường ;
Trí minh mẫn, lực kiện khang,
Lòng nhân rộng rãi, tình thương dạt dào ;
Đoàn chiên hai xứ Chúa trao
Dắt về đất sữa mật trào thơm tho.
Xin kính chúc Cha Phao-lô :
Càng thêm giống Thánh Tông Đồ lương dân ;
Dư đầy ơn Chúa Thánh Thần,
Gian nan chẳng ngại, nhọc nhằn chẳng e.
Xin kính chúc
Cha Giu-se :
Ơn thiêng
Thiên Chúa chở che đêm ngày ;
Phục tuân Thần
Khí Chúa sai,
Tin Mừng rao
giảng miệt mài quản chi !
Cùng xin kính
chúc quý Dì :
Trọn đời tận
hiến chỉ vì tình yêu ;
Chúa ban lòng
mến thêm nhiều,
Dấn thân phục
vụ, bước theo chân Ngài.
Chúc Ban Hành
giáo mọi người :
Nên như khí cụ
an vui Chúa dùng,
Nối tình bác
ái, hiệp thông,
Chung xây
Giáo xứ Nam Đồng đẹp thêm.
Kính chúc quý
Cụ Cao Niên :
Lòng Tin, Cậy,
Mến : một niềm chẳng phai ;
Tuổi càng
cao, đức càng dày,
Gương cho con
cháu hằng ngày hằng trông.
Kính chúc Gia
Trưởng quý Ông :
Chúa ban ơn,
xứng người chồng, người cha.
Kính chúc Hiền
Mẫu quý Bà :
Người vợ, người
mẹ hiền hoà đảm đang.
Vợ chồng mặn
nghĩa tào khang,
Thuỷ chung gắn
bó yêu thương trọn đời ;
Cùng nhau dưỡng
dục, vun bồi
Đàn con mơn mởn
những chồi ô-liu ;
Kinh Mai Khôi
nguyện sớm chiều,
Sống Lời Chúa
dạy : tình yêu vững bền.
Mến chúc các
Bạn Thanh Niên :
Chọn Giê-su :
lí tưởng riêng đời mình ;
Đường tương
lai, Chúa song hành,
Dẫu êm đềm, dẫu
chênh vênh sá gì !
Mến chúc các
Cháu Thiếu Nhi :
Những Giê-su
nhỏ nhu mì, nết na ;
Hết lòng hiếu
kính mẹ cha,
Anh em thuận
thảo, một nhà bình an.
Xin kính chúc
quý Hội Đoàn :
Các nhân đức
Chúa càng ban bội phần ;
Luôn nhìn thấy
Chúa ẩn thân
Nơi anh em khắp
xa gần để yêu ;
Ngày ngày
dâng Chúa huyền siêu
Lời ca tiếng
nhạc dặt dìu ngợi khen ;
Phục vụ Chúa trong anh em,
Chẳng nề vất vả, chẳng hiềm khó khăn ;
Bên nhau nâng đỡ ân cần,
Cộng đoàn Xuân lại thêm Xuân từng ngày.
Giờ đoàn con họp nơi đây,
Buổi Nguyên Đán, phút giây này linh
thiêng,
Cúi xin Thiên Chúa uy quyền
Cho thành sự những ước nguyền đầu Xuân.
Nắng Xuân ấm áp trời Xuân,
Ý Xuân rộn rã, nhạc Xuân tưng bừng.
Ngày Xuân lời vụng kính dâng,
Xin Cha nhận những chúc mừng đầu Xuân.
-xXx-
Để kết
bài viết này, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, người viết bài xin có một vế
đối mời các bạn đọc xa gần đối lại :
Nơi tội lỗi đầy tràn lại chứa
chan ân sủng ;
(Rô-ma 5:20)
BÙI
NGỌC HIỂN
MỘT VÀI CHÚ THÍCH
Quy ước đối với các chữ tắt về xuất xứ các cặp câu
đối trích từ Thiên Chúa thánh giáo nhựt khoá.
Như đã trình bày, trong Thiên Chúa thánh giáo nhựt
khoá, thiên thứ bảy [Đệ thất thiên] mang tên là Đồng niên tổng
kinh văn [= Tóm các kinh đọc quanh năm] gồm 6 mục cùng với các kinh (chỉ kể
các kinh được trích dẫn) sau đây :
I. Ca hát mùa Sinh Nhựt, có các kinh :
2.
Cứu thế toà trung [= Trong toà Đấng Cứu thế ; tên kinh tiếng Nôm trong sách là
: Ớ máng cỏ] ;
6.
Đội ơn Chúa Cứu thế ;
7.
Hỡi mục đồng ;
9.
Lễ đặt tên Đức Chúa Giêsu ;
10.
Lễ Ba Vua, bài 1 : Tam Vương triều thị Cứu thế [= Ba Vua chầu Đấng Cứu thế].
II. Ca hát mùa Chay :
2.
Cám tạ kinh.
III. Ca hát mừng Phục Sinh :
5.
Lễ Đức Chúa Giêsu thăng thiên ;
11.
Lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, bài 1 ;
12.
Lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, bài 2.
IV. Ca hát Mình Thánh Chúa :
1.
Ớ núi thánh Sion (Lauda Sion).
V. Ca hát về Đức Bà :
1.
Lễ Đức Bà mông triệu ;
2.
Lễ Mông triệu ;
3.
Lễ Sinh nhựt Đức Bà ;
4.
Lễ Môi khôi ;
5.
Lễ Đức Bà phú mình vào đền thánh ;
6.
Kính mầng Đức Mẹ Chúa Trời ;
7.
Kính ngợi Đồng trinh Thánh Mẫu.
VI. Ca hát về các Thánh :
2.
Lễ ông thánh Phê rô cùng ông thánh Phao lô Tông đồ.
Do đó ký hiệu [c. 17] (7:III:12) : có nghĩa là :
câu
số 17 này trích từ Đệ thất thiên, mục III [Ca hát mùa Phục Sinh], kinh số
12 [Tán tụng ngôi cao Thiên Chúa].