Ý nghĩa các tên gọi
Tết, Trừ Tịch, Giao Thừa, Nguyên Đán
BÙI NGỌC HIỂN
Lịch truyền thống ở nước ta tuân theo
quy tắc của Âm – Dương lịch (gọi tắt là Âm lịch, viết tắt là âl), một thứ
lịch pháp được dùng ở nhiều dân tộc khác như Tầu, Hàn, Do-thái... Thứ lịch gọi
là “Cổ lịch Việt Nam” cho đến nay vẫn chưa thể xác định là có hay không,
tất cả đều chỉ dừng lại ở các giả thuyết, tức là chỉ phỏng đoán, chưa có chứng
cứ nào xác thực.
Trải qua cả ngàn năm bị bắc phương đô hộ,
việc áp dụng lịch pháp ở ta có chỗ tương đồng với lịch Tầu cũng là chuyện dĩ
nhiên. Tuy thế, trong quá khứ, âl ở ta và ở Tầu vẫn có những khác biệt, không
phải những người soạn lịch ta chỉ biết “bê nguyên xi” lịch Tầu vào làm lịch của
mình. Những khác biệt đó là do các quan ở Khâm Thiên Giám căn cứ vào các
quan sát các hiện tượng thiên văn thật xảy ra ở nước ta (thuộc kinh tuyến khác
với kinh tuyến được coi là cơ sở cho các quan sát thiên văn bên Tầu). Sự khác
biệt đó dẫn đến việc có những năm ở ta ăn Tết (Nguyên đán) sớm hơn ở Tầu 1
ngày, có năm sớm hơn 1 tháng.
Về tên gọi cũng thế, phần lớn đều có tương ứng với các
tên gọi của lịch Tầu, và cũng không phải là tất cả.
* Đầu tiên là tên gọi “ngày
Tết”. Từ ngữ “Tết” được coi là âm đọc Nôm của chữ Nho 節 tiết. Chữ Nho “tiết” này có nghĩa ban đầu là “mắt
tre, đốt tre”, chỉ phần trên thân cây tre khác với các phần [nhiều hơn] chung
quanh chỗ “đốt / mắt” đó. Sau được dùng rộng ra các lĩnh vực khác, mà về thời
gian, thì dùng để chỉ những thời điểm “được coi là đặc biệt” so với khoảng thời
gian trước và sau thời điểm đó, những thời điểm được coi là “làm mốc”.
“Mốc” đầu tiên của một năm âl chính là ngày mồng 1
tháng Giêng, ngày này chữ Nho gọi là 新正節 Tân Chinh tiết,
nghĩa là Tết tháng Giêng mới. Ba ngày đầu tiên Năm Mới, chữ Nho gọi là 春節 Xuân Tiết, nếu dịch sát nghĩa thì là Tết mùa Xuân, nhưng
ở Việt Nam, ba ngày này vẫn quen gọi là Tết Nguyên Đán (xem thêm bên dưới).
Ở ta trước kia, ngoài “Tết Nguyên Đán”, còn nhiều
ngày “Tết” khác như Tết Đoan Ngọ (ngày 5 tháng Năm âl), Tết
Trung Thu (rằm tháng Tám âl)... Có thể xem hình chụp lại các trang Lịch
Công giáo Địa phận Xuân Lộc các năm 1973, 1975 ở dưới đây.
Hình
1 : Một phần trang Lịch Công giáo Địa phận Xuân Lộc
năm
1973, Tết TRUNG THU nhằm ngày 11-9-1973
Hình
2 : Một phần trang Lịch Công giáo Địa phận Xuân Lộc
năm
1975, TẾT ĐOAN NGỌ nhằm ngày 14-6-1975
Nhưng bốn năm chục năm nay, dù những ngày
như thế vẫn cứ là những 節日tiết nhật [= ngày tết], người
ta không còn coi đó là những ngày “tết” nữa. Bảng dưới đây liệt kê một số 節日tiết nhật :
Số thứ tự
|
Ngày “Tết”
|
Ngày âl tương ứng
|
Tên chữ Nho
|
1
|
Tết Nguyên đán
|
1 tháng Giêng
|
新正節 / 春節 Tân
chính tiết / Xuân tiết
|
2
|
Tết Nguyên tiêu
|
15 tháng Giêng
|
元宵節 / 上元節 Nguyên
tiêu tiết / Thượng nguyên tiết
|
3
|
Tết Hàn thực
|
3 tháng Ba
|
寒食節 / 百五節 Hàn
thực tiết / Bách ngũ tiết
|
5
|
Tết Đoan ngọ
|
5 tháng Năm
|
端午節 Đoan
ngọ tiết
|
6
|
Thất tịch
|
7 tháng Bảy
|
七夕 Thất
tịch
|
7
|
Trung nguyên
|
15 tháng Bảy
|
中元節 Trung
nguyên tiết
|
8
|
Đoan dương / Trùng cửu
|
9 tháng Chín
|
重陽節 Đoan
dương tiết
|
9
|
Hạ nguyên
|
15 tháng Mười
|
下元節 Hạ
nguyên tiết
|
Nếu có điều
kiện, sẽ trình bày chi tiết về các “ngày tết” này trong một bài khác.
Ngày lễ Chúa giáng sinh (nhằm ngày 25 tháng Mười
Hai dương lịch) cũng được người Tầu coi là một ngày “Tết” : 聖誕節 Thánh
đản tiết, nghĩa đen là : Tết [mừng] Đấng
Thánh sinh ra.
* Trừ Tịch : chữ Nho
viết là 除夕 : chữ này dịch sát nghĩa là “buổi tối [cử hành việc] xua
đuổi [các tà ma ác quỷ]”.
Nghĩa riêng từng chữ :
Chữ 除 trừ, theo Khang Hi Tự Điển, có nghĩa là bỏ đi, xua
đi (nguyên văn : 除 : 去也 trừ
: khử dã]) ; về việc quan thì 除 trừ có nghĩa là 除去故官 , 就新官 trừ
khử cố quan, tựu tân quan [= “đuổi”
quan cũ, đón quan mới], cũng có nghĩa là thay đổi ( 易也 dịch
dã) ; từ chữ 除 trừ này chuyển sang tiếng Nôm thành “chừa” như :
“tao thì cứ gọi là ‘chừa’ cái mặt mày ra” !
Chữ 夕 tịch có nghĩa là buổi chiều tối, khoảng thời gian từ sau mặt
trời lặn cho đến nửa đêm : nguyên văn trong Khang Hi Tự Điển : 夕
: 晨之對 , 暮也 tịch : thần
chi đối [= đối nghĩa với buổi sáng sớm],
mộ dã [= buổi chiều hôm]. Sách 尚書 Thượng Thư, 大傳 Đại Truyện : kê ra 歲之夕
, 月之夕 , 日之夕 tuế chi tịch,
nguyệt chi tịch, nhật chi tịch [lúc
“tịch” của năm, của tháng, của ngày], và giải nghĩa như sau : 謂臘爲歲夕 , 晦爲月夕 , 日入爲日夕也 vị lạp vi tuế
tịch, hối vi nguyệt tịch, nhật nhập vi nhật tịch = gọi tháng Chạp là lúc “tịch” của năm, hôm hối [=
hôm không trăng] là “tịch” của tháng, lúc mặt trời lặn là “tịch” của ngày.
Theo sách 荊楚歲時記 Kinh
Sở Tuế Thì Kí thuật lại, nửa đêm mồng
một tháng Giêng, thời Xuân Thu gọi là 端日 đoan nhật [= ngày đầu hết], khi gà vừa gáy, người ta đem các ống
tre khô nỏ đốt ở trước sân cho nổ vang lừng, để xua đuổi lũ sơn tao, ác quỷ.
Sách 神異經 Thần
Dị Chí thuật : ở núi bên tây có con
quái, mình dài hơn thước [thước ngày xưa, chưa đến 30 cm], chỉ có một
giò, không biết sợ người, trái lại, ai phạm vào nó thì phát sốt rét. Con quái ấy
gọi là con 山臊 sơn
tao [nghĩa đen là giống tanh tưởi ở
núi]. Hễ người ta đốt ống tre khô cho nổ vang thì con quái ấy mới sợ hãi mà
tránh đi cho xa tít tắp. Sách 呂氏春秋 Lã Thị Xuân
Thu, 季冬 Quý Đông, thuật
: nay [= tức là “nay” lúc trước thời Tần Thuỷ hoàng, khoảng cuối thế kỉ III TCN]
cứ vào hôm cận kề năm mới, người ta đánh trống đuổi ôn dịch, gọi là 逐除 trục
trừ [= xua đuổi]. Theo
sách 風土記 Phong Thổ Ký, tối hôm trước năm mới,
người ta thức trọn đêm để chờ đón ánh sáng đầu tiên của năm, đồng thời đốt những
ống tre đã phơi khô nỏ cho nổ ầm ĩ từ khoảng trước nửa đêm để “ 辟邪驅鬼 tịch tà khu quỷ” [= xua tà đuổi quỷ ; chữ tịch
辟 này có nghĩa như 除 trừ, là xua đuổi, bỏ đi, không phải chữ 夕 tịch là buổi tối]. Việc đó trở thành tục
lệ truyền từ thời tiên Tần đến nay ; vì vậy đêm trước năm mới gọi là 除夕 trừ
tịch, có nghĩa là “đêm xua đuổi
[tà ma ác quỷ]”.
Có đôi câu đối kể là quen thuộc :
爆竹一聲除舊歲
桃符萬戶迓新春
Bộc trúc nhất thanh trừ cựu tuế ;
Đào phù vạn hộ nhạ tân xuân.
= một tiếng pháo bằng ống tre nỏ xua đi năm cũ ;
muôn nhà cài
bùa bằng cành đào đón xuân mới.
Gần đây, trên internet thấy có ai đó, chẳng biết
căn cứ vào đâu, cắt nghĩa rằng : “lễ trừ tịch là lễ thay chiếu - trừ là bỏ
đi, tịch là chiếu”. Thật là cắt nghĩa liều. Không có tài liệu nào nói về
cái thứ “lễ” nào gọi là “lễ thay chiếu” bao giờ. Đây là sự giải nghĩa hoàn toàn
bịa đặt. Quả là có chữ Nho “tịch” là chiếu thật, nhưng chữ “tịch”
đó viết là 席 (hẳn
người cắt nghĩa đã nghĩ đến cặp chữ Nho – Nôm số 46 trong 三千字 Tam Thiên Tự song lại không thuộc mặt chữ : ... 床 sàng - giường, 席 tịch - chiếu, 欠 khiếm - thiếu, 餘 dư - thừa ...), chứ không phải chữ “tịch” 夕 trong “trừ tịch” 除夕 , cũng không phải chữ “tịch” 辟 trong “tịch tà” 辟邪 nói trên ! Đó gọi là “điếc không sợ súng”.
* Giao thừa : chữ
Nho viết là 交承 ,
tuy vậy, từ ngữ 交承 giao thừa
này không thể tìm thấy trong nhiều tự / từ điển chữ Nho, cả do người Tầu biên tập
(như Khang Hi Tự Điển, Từ Vựng của Lục Sư Thành, Tân Hoa Tự Điển...),
cả do người Việt biên tập (như tự điển Thiều Chửu, Hoàng Thúc Trâm, Nguyễn
Trần Mô...). Trong Việt Hán Tân Tự Điển của Phó Căn Thâm, Việt
Hán Từ Điển Tối Tân của Huỳnh Minh Xuân, từ ngữ “[đêm] giao thừa” được
dịch sang chữ Nho lại chính là 除夕 trừ tịch, mà không có mặt chữ Nho cho “giao thừa”.
Ngoài danh xưng 除夕 trừ
tịch, người Tầu còn dùng những danh
xưng khác, như : 跨年日 khoá niên nhật
[nghĩa đen là ngày mà một năm nhảy vượt qua], 跨年前夜 khoá
niên tiền dạ [= đêm trước ngày năm mới],
跨年日前日 khoá
niên nhật tiền nhật [= ngày trước ngày
năm mới], 元旦前夕 nguyên
đán tiền tịch [= chiều hôm trước buổi
nguyên đán], 元旦前夜 nguyên
đán tiền dạ [= đêm trước buổi nguyên
đán], 新年前日 tân
niên tiền nhật [= ngày trước năm mới]
; không có từ ngữ nào liên quan gì đến “giao thừa” cả.
Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh : 交承 giao thừa : cũ giao qua, mới tiếp lấy – lúc năm cũ qua, năm mới
đến. Nhưng
mà ai giao với tiếp và giao với tiếp cái gì ? Chẳng lẽ là năm cũ giao qua cho
năm mới tiếp lấy ? Trong bộ Hán
Ngữ Đại Từ Điển đồ sộ gồm 13 quyển, ở quyển 2 có thấy từ ngữ 交承 giao
thừa này và được giải nghĩa như sau :
謂前任官吏卸職移交 , 後任接替 vị tiền nhiệm
quan lại tá chức di giao, hậu nhiệm tiếp thế = nói quan lại tiền nhiệm thôi việc thì bàn giao lại cho người sau
thay lấy. Các từ điển [Tầu] trên internet cũng chỉ sao chép lại giải nghĩa
này.
Té ra 交承 giao thừa là sự “giao” [đưa cho] và “thừa” [nhận
lấy] giữa 2 vị quan gọi là “tuế quan”, theo tin tưởng trong dân gian là
các thần làm nhiệm vụ trực năm. Giây phút ta gọi là lúc “giao thừa” chính là 新舊歲官交承之時 tân
cựu tuế quan giao thừa chi thì = lúc
tuế quan cũ “giao qua” cho tuế quan mới “tiếp lấy”. Như
thế có thể nói rằng danh xưng [đêm] Giao Thừa là cách nói
của riêng người Việt Nam để chỉ thời khắc nửa đêm năm cũ sang năm mới, không biết
do ai đề xướng và từ bao giờ, nhưng rõ ràng các cụ đã khéo chọn chữ nghĩa rất
phù hợp với nghĩa của 除 trừ trong 除夕 trừ tịch đã dẫn trên (xem lại : 除去故官 , 就新官 trừ khử cố quan, tựu tân
quan).
* Nguyên đán : chữ
Nho viết là 元旦 , nghĩa riêng từng chữ là :
Chữ 元 nguyên, sách 爾雅 Nhĩ Nhã : 元
, 始也 nguyên,
thuỷ dã = nguyên là bắt đầu, lúc đầu
hết. Chữ 旦 đán, viết theo lối triện thư là
, cho thấy hình
vẽ mặt trời
, tức là chữ 日 nhật, vừa nhô lên khỏi đường chân trời.
Vậy 元旦 nguyên đán có nghĩa là “buổi rạng đông đầu tiên [của một năm]”. Gọi “Tết Nguyên Đán”
là nói rộng ra theo thói quen để chỉ mấy ngày đầu Năm Mới, chứ đã hết sáng Mồng
Một Tết thì không thể còn có cái “nguyên đán” thứ hai, thứ ba... nào nữa
trong cùng một năm !
BÙI NGỌC HIỂN