ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
BÙI NGỌC HIỂN
Bài đọc trích sách Khải Huyền đọc trong lễ trọng Đức Mẹ hồn xác lên trời có
câu : Et signum magnum appa ruit in caelo : mulier amicta sole, et luna sub
pedibus eius, et super caput eius corona stellarum duodecim [Latin, = Và
một dấu lạ xuất hiện trên trời : một phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp trên mặt trăng,
và đầu đội miện mười hai sao, Apoc 12:1].
Tuy nhiên chữ corona của L. (trong corona stellarum duodecim)
thường được dịch là triều thiên là không đúng. Bản dịch Tin Lành Việt ngữ
cũ dịch cẩn thận hơn : mão triều thiên, nghĩa là mũ [冒 mạo hay mão] đội đầu
khi về chầu Chúa, chầu trời [朝 天 triều thiên = chết], chỉ vầng sáng (E : halo) thường
được vẽ trên đầu các thánh trong các tranh ảnh. Bản dịch TL mới bỏ hẳn từ triều
thiên, chỉ dùng mão [= mạo] để dịch corona. Các từ điển
Hán đều không có từ triều thiên 朝 天 này. Bản dịch Kinh Thánh
trong tiếng Hoa như bản Tư Cao (Công giáo) dịch : 十 二 顆 星 的 榮 冠 [thập nhị khoả tinh
đích vinh quan = mũ vẻ vang mười hai hạt sao] ; bản Hoà Hiệp (Tin
Lành) dịch : 十 二 星 的 冠 冕 [thập nhị tinh đích
quan miện = mũ đội mười hai sao]. Theo Hán Việt từ điển của Đào
Duy Anh, 冕 miện là mũ lễ, tức đi kèm với
lễ phục để tham dự một nghi lễ nào đó ; theo Thiều Chửu, chỉ các quan từ
đại phu trở lên mới được đội, còn 冠 quan và 冒 mạo là chỉ mũ nói chung. Vậy
thì nên dịch corona stellarum duodecim là mũ, mạo, mão mười hai sao.
Mà nếu cẩn thận hơn, thì có thể thay những tiếng này bằng miện, vinh miện...
chẳng hạn. Nếu bỏ các chữ như mũ, mạo, mão, miện... đi, thì đầu đội
triều thiên mười hai sao... hoá ra có nghĩa là : đầu đội [cái]
chầu trời mười hai sao ! Không biết cái chầu trời nghĩa
là cái gì !
Trong Tân Ước có đề cập đến nhiều phụ nữ, hoặc nói chung chung, hoặc nêu
đích danh. Theo các giáo phụ (patriarcha), đoạn Kinh Thánh trên nói về Bà
Maria, mẹ của Đức Giêsu, vì Bà là phụ nữ có vị trí quan trọng đặc biệt hơn
bất kì phụ nữ nào khác. Do đó miện 12 sao trên đầu Bà được giải thích
theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn 12 sao chỉ Bà được ban trọn vẹn 12 ân sủng
của Thánh Thần. Cách giải thích khác nói đó là 12 đặc ân gồm :
1). được tiền định từ trước tạo dựng vũ trụ ;
2). vô nhiễm tội nguyên tổ Adam Eva ;
3). được rợp bóng Thánh Thần ;
4). trọn đời trinh khiết ;
5). sinh hạ Chúa Giêsu Kitô ;
6). đầy ân sủng ;
7). được mặc khải về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi ;
8). ngai toà của Thiên Chúa khôn ngoan siêu việt ;
9). cao trọng hơn các thiên thần và loài người ;
10). được Chúa trao ban chức Nữ Vương ;
11). được gọi là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người ;
12). được mọi loài thụ tạo tôn kính.
Thánh Bernardinus trong De Virginis matris Dei
Nativitate, et de ejus superadmirabili gratia, Sermo V [= Về Sinh nhật Đức
Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và về những ân phúc rất đáng khâm sùng của Người, Bài
giảng thứ V] giải thích 12 đặc ân Bà Maria được Thiên Chúa ban gồm :
1). nobilitas = cao quý ;
2). praeservatio = được tiền định
;
3). meritum = ưu giá ;
4). potestas = quyền phép ;
5). superexcellentia = tối hảo ;
6). dominario = bà
chúa ;
7). regnum = nữ vương ;
8). dispensatio = được
miễn trừ ;
9). consummatio = toàn
vẹn ;
10). ornatus = vinh dự ;
11). retribatio = được
ân thưởng ;
12). incomprehensibilitas =
không thể hiểu thấu.
Ngoài ra còn nhiều cách giải thích khác, như 12 sao chỉ Bà là Bà Chúa của 12
chi tộc Israel, chỉ rộng ra là của cả nhân loại ; hoặc 12 sao chỉ Bà là Nữ
vương của 12 Thánh Tông đồ, tức của toàn thể Hội Thánh... Ngoài ra, Bà
cũng là người phụ nữ duy nhất có vị trí vinh dự đặc biệt trong Hồi giáo. Có lẽ
tên Maria được đề cập đến trong Kinh Qor’an
còn nhiều hơn trong Tân Ước (với địa vị là Mẹ của Tiên tri Giêsu Isa [A : عيسى ; Isa]). Có hẳn một chương trong kinh Qor’an mang tiêu đề "Maryam" (A : مريم = Maria), chương duy nhất trong kinh đó
mang tên một người phụ nữ.
Theo Kinh Qor’an, Bà Maria cũng có 12 đặc
sủng :
1). dấu chỉ của Đức Chúa cho nhân loại [23:50] ;
2). gìn giữ đức trinh khiết [66:20] ;
3). người vâng phục [66:12] ;
4). được thân mẫu của Bà dâng cho Đức Chúa khi Bà còn là thai nhi [3:36] ;
5). phụ nữ duy nhất giữa các phụ nữ được nhận để phụng sự Đức Chúa [3:37] ;
6). được tiên tri Zakariya nuôi dưỡng và dạy dỗ từ thuở ấu thơ [3:37] ;
7). được ở trong Đền Thờ và là người độc nhất được bước vào chốn Cực Thánh Al-Mihrab
và được chính Đức Chúa quan phòng [3:37] ;
8). là Người Được Chọn [3:42] ;
9). là Người được làm cho thanh khiết [3:42] ;
10). là Người chân thật [5:75] ;
11). con lòng Bà thụ thai nhờ "một lời của Đức Chúa" [3:45] ;
12). được tôn kính trên hết thảy các phụ nữ trong hoàn vũ [3:42].
Mười hai sao trong Apoc 12:1 được thể hiện trên Médaille
Miraculeuse ([de la Rue du Bac], F ; tín hữu Công giáo Việt Nam quen
gọi là Ảnh Đức Bà hay làm phép lạ ; E : Miraculous Medal hoặc Medal
of the Immaculate Conception [= Huy hiệu Vô Nhiễm]). Đó là một hình
e-lip, mặt trước có hình Đức Maria đưa hai tay toả ra các tia sáng (quen gọi là
hình Đức Mẹ ban ơn), được viền chung quanh dòng chữ : Ô Marie, conçue
sans péché, priez pour nous qui avons recours à vous [= Ôi Maria vô nhiễm,
xin cầu cho chúng con đang chạy đến với Người]. Mặt sau có mười hai sao viền
quanh một hình Thập tự giá, gồm hình chữ M có một đường ngang lồng qua,
trên đường ngang là hình Thập tự (trong tiếng Anh gọi Thập tự giá này là Marian
Cross, nghĩa là Thập tự giá Maria, nhưng giải thích chính thức cho
biết Thập tự giá này tượng trưng cho Thập tự giá của Chúa Giê-su đã dùng để cứu chuộc nhân loại ;
xem Connaissez la signification de la Médaille miraculeuse tại http://tfp-france.org/18443/connaissez-la-signification-de-la-medaille-miraculeuse-2).
Dưới hình Thập tự là hình hai trái tim : một ở bên trái có vòng gai bao quanh, chỉ
Thánh Tâm Chúa Giêsu (do Jn 19:2-3, khi Đức Giêsu bị bắt trong vườn
Getsêmani rồi bị điệu đến cho Philatô, tại đây Ngài bị đánh đòn, sau đó, bọn
lính kết một vòng gai làm miện đội lên đầu Ngài, khoác cho Ngài một áo choàng đỏ,
và diễu cợt Ngài : Kính chào vua dân Do-thái, rồi vả vào mặt Ngài) ; một ở
bên phải có lưỡi gươm đâm thâu, chỉ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Maria (do Lc
2:33-35, lời của ông cụ Simêon trong Đền thờ Giêrusalem nói với Bà khi Bà đem Con dâng cho Đức Chúa Giavê : còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu
tâm hồn bà, để những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra). Dưới cùng
là con số 1830, là năm Đức Maria đã mặc khải cho thánh nữ Catarina về ảnh này
trong một lần Người hiện ra với thánh nữ vào ngày 27 tháng Mười Một năm đó.
Arsène Heitz, người
Strasbourg, thiết kế lá Cờ của Liên Minh Châu Âu (E : European Union
; F : Union européenne ; D : Europäische Union ; Es : Unión
Europea) đã lấy ý tưởng từ Miện Mười Hai Sao. Ông thuật lại :
C’est à moi qu’on a demandé de des-siner le Drapeau de
l’Europe. J’ai eu subitement l’idée d’y mettre les douze étoiles de la Médaille
Miraculeuse de la Rue du Bac, sur fond bleu, couleur de la Sainte Vierge. Et
mon projet fut adopté à l’unan-imité, le 8 décembre 1955, fête de l’Immaculée
Conception [= Tôi được đề nghị vẽ kiểu lá cờ cho châu Âu. Tôi đột nhiên nảy ra ý
tưởng đặt mười hai sao của Ảnh Đức Bà hay làm phép lạ trên nền xanh lam, màu của
Đức Thánh Trinh Nữ. Dự án của tôi đã nhận được sự nhất trí ngày 8-12-1955, lễ
(Đức Mẹ) Vô Nhiễm].
Theo Hội đồng châu Âu (F : le Conseil de l'Europe), mười hai
sao màu vàng xếp thành hình vòng tròn trên nền xanh nước biển tượng trưng cho sự
đoàn kết các dân tộc châu Âu. Con số mười hai là không đổi, mặc dù lúc đó Liên
minh chỉ có 6 thành viên : Pháp, Đức, Í, Hà-lan, Bỉ, Lục-xâm-bảo (Luxembourg),
và phải mãi đến năm 1986 mới đạt số 12 thành viên. Số 12 được xem là biểu tượng của
sự hoàn hảo (12 giờ ban ngày, 12 giờ ban đêm, 12 tháng trong năm) ; ngoài việc
bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo (12 chi tộc Israel, 12 Thánh Tông đồ, Miện 12
sao), nó cũng xuất hiện ngay từ cổ đại (12 dấu hiệu vòng Hoàng đạo, 12 lao tác
của Herakles, Luật 12 Bảng Rôma cổ...). Chọn số 12, theo phát biểu của Václav
Havel tại hội nghị Strasbourg n 1990, là có ý nói thế giới có thể trở nên tốt đẹp
hơn...