Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

THẦN CHẾT TRÊN CÂY LÊ




THẦN CHẾT TRÊN CÂY LÊ



BÙI NGỌC HIỂN
phóng tác theo truyện cổ Pháp





            NGÀY xưa, xưa lắm, tại một ngôi làng nghèo nàn nằm hẻo lánh đâu đó trên mặt đất, mà chẳng ai còn nhớ là nơi nào, có một bà goá già. Chồng mất đi, không để lại cho bà lấy một mụn con, cũng chẳng để lại tài sản quý báu gì ngoài một túp lều đã ránh nát dựng trên một mảnh đất con con, như người ta thường nói là bé bằng… cái lỗ mũi, ở mãi cuối làng ít người lui tới, chỉ có bọn trẻ con ưa quậy phá, hoặc năm thì mười hoạ mới có khách bộ hành lạc lối bước đến đây, còn thì quanh năm suốt tháng hầu như không người lai vãng. Phía trước túp lều nát có một cây lê do ông chồng xin được giống tận đẩu đâu mang về trồng đã từ lâu lắm, ra trái ngon nổi tiếng trong làng, có điều cây không sai mấy. Khi bà goá còn khoẻ mạnh, đôi lúc người làng cũng nhờ bà làm chút việc vặt để đổi lấy bữa ăn qua ngày. Nay bà đã già, sức yếu, tay chân lóng ngóng, chẳng còn ai muốn nhờ. Vì thế, cây lê trở thành nguồn sống của bà. Với chiếc sào nhỏ, bà khều những quả lê chín đem đổi thức ăn. Có thể nói chẳng ai chê những quả lê của bà già. Khổ nỗi cây lê đã không sai trái, lại thường hay bị trẻ vặt trộm. Không chỉ trẻ con, ngay cả những khách bộ hành – nói cho đúng thì cũng hiếm thôi – lỡ đường đói bụng khô cổ, đi ngang qua thấy những trái lê ngon mắt mà bà già chưa kịp hái, cũng thò tay vặt. Cho nên bà già đã khổ lại càng khổ, tuy ở một mình nơi hiu quạnh mà suốt ngày bà cứ phải rình cây lê. Những lúc bà đi vắng thì chẳng cách gì giữ được. Bà buồn rầu, luôn miệng than thân trách phận :

            - Trời ơi, sao mà tôi cực khổ thế này ! Có khi chết lại còn sướng hơn ! Thần Chết ở đâu sao không đến đem tôi đi cho rồi ?

            Nhưng Thần Chết không đến đem bà đi, dù đã vài lần ghé qua, nhưng chỉ là để xin bà... một quả lê cho đỡ thèm ! Trong khi đó, người ta nghe bà than thở riết rồi gọi bà là "bà già Cực Khổ".

            Dù vậy, bà vốn tốt bụng, chả nguyền rủa ai bao giờ, nói gì đến chửi bới đánh đập ai. Chắc bạn cho rằng bà già hơi sức đâu mà đánh với đập ! Không phải, đó là bản tính của bà, khi còn trẻ trung khoẻ mạnh đã thế, có phải nay già nua tuổi tác mới vậy đâu. Đừng nghĩ bậy cho bà mà mang tội ! Bọn trẻ con có đến vặt trộm lê mà bà bắt được, bà cũng chỉ nhẹ nhàng bảo :

            - Các cháu thương bà với, bà nhờ vào có mỗi cây lê này mà sống thôi !

            Không phải bọn trẻ không thương bà, nhưng sức cám dỗ của những quả lê thường quá lớn, khiến chúng ít khi cưỡng lại được. Do thế mà bà già Cực Khổ vẫn cứ là bà già Cực Khổ.

            Một hôm, thánh Phê-rô được Chúa sai đi công cán, tình cờ ghé qua nhà bà thì gặp lúc trời đã tối. Ngài xin bà cho nghỉ nhờ. Mắt mũi kèm nhèm, chẳng biết khách là ai, nhưng bà vẫn vội vội vàng vàng đón vào. Chẳng những bà vui lòng cho thánh Phê-rô nghỉ nhờ, mà còn đem ra cho ngài mẩu bánh con là bữa tối của bà để khách đỡ lòng. Thánh Phê-rô cảm ơn, rồi làm bộ chẳng biết gì đến sự túng thiếu của bà già Cực Khổ, ngài bỏ tọt vào miệng một phát hết sạch. Thì đã nói đó chỉ là mẩu bánh con, mà sức thánh Phê-rô vốn xuất thân con nhà chài lưới, thì bõ bèn gì mà chẳng hết sạch mẩu bánh !

            Xơi gọn mẩu bánh bữa tối của bà già Cực Khổ, thánh Phê-rô nằm dài lên cái chõng đã xiêu vẹo, mà bà già cố dọn cho tươm tất nhưng vẫn để lòi ra những chỗ thủng nát, rồi ngài nhắm mắt ngáy... vang như sấm, để bà già Cực Khổ muốn xoay xở sao cũng mặc !

            Sáng hôm sau, thánh Phê-rô dậy đã sớm là vậy – thì ngài vốn con nhà lao động, ngay từ hồi chưa gặp Chúa Giê-su cũng từng quen dậy sớm rồi – thế mà đã thấy ở đầu chõng một cái đĩa mẻ trên bày ba quả lê chín trông rất ngon lành. Lần này thì ngài thực sự cảm động. Cầm cả ba trái lê trong tay, ngài gọi bà già Cực Khổ đến, nói :

            - Này bà già, ta là thánh Phê-rô đây. Ta được Chúa sai đi vi hành trần thế. Ta thực sự thấy bà rất tốt bụng, cho nên nhân danh Chúa, ta sẽ làm cho bà ba điều bà xin, bất cứ là xin gì !

            Bà già Cực Khổ không ngờ cái ông to khoẻ kia lại là thánh Phê-rô, nên luống cuống đôi chút. Nhưng rồi bà trấn tĩnh lại và thưa :

            - Lạy thánh Phê-rô, xin đại xá cho con, vì con nay già lão quá, mắt mũi chẳng nom rõ ai với ai...

            - Không sao đâu mà, ta biết, ta biết. Thôi, bà xin gì thì xin đi, ta sẽ thực hiện ngay cho.

            - Bẩm – bà ngập ngừng vì phải nghĩ xem nên xin gì cho đáng – bẩm, con xin ngài ban cho cây lê của con được sai trái...

            - Ta chuẩn y điều thứ nhất bà xin. Thế điều thứ hai là gì nào ?

            Lần này bà già không phải nghĩ lâu, bà xin :

            - Bẩm, như ngài đã biết, cây lê của con cứ bị người ta vặt trộm mất...

            - Ta biết rồi, bà xin gì thì cứ nói đi, đừng ấp úng nữa...

            - Bẩm, xin ngài làm cho chỉ trừ con ra hễ ai đụng đến một quả nào trên cây lê của con là bị dính chặt vào cây, mà cả những ai đụng vào người dính trên cây cũng bị dính nốt, chỉ khi nào con cho phép mới gỡ ra khỏi được ạ...

            Thánh Phê-rô phá lên cười ha hả, ngài phán :

            - Ta cũng chuẩn y cả điều bà xin lần này nữa. Thế còn điều thứ ba ? Bà muốn gì nữa nào ?

            Bà già ngẫm nghĩ, ngẫm nghĩ mãi, vẫn không biết nên xin gì với thánh Phê-rô, khiến ngài phải giục :

            - Bà muốn gì thì cứ nói đi, đừng ngại.

            - Bẩm..., bẩm...

            - Bà nói đi.

            - Lạy thánh Phê-rô, xin ngài đại xá, nhưng mà bây giờ con chưa nghĩ ra được là phải xin gì...

            Thánh Phê-rô không lấy thế làm phiền, ngài vui vẻ bảo :

            - Thôi được, nếu bây giờ bà chưa nghĩ ra thì cũng không sao. Ta đã hứa thì luôn giữ lời. Hễ khi nào bà nghĩ ra thì cứ xin với ta, ta sẽ chuẩn y điều bà xin ngay.

            Bà già nghe thế rất đỗi hân hoan, bèn thưa :

            - Lạy thánh Phê-rô, con xin đội ơn ngài, ngài tốt bụng quá.

            - Thôi, giờ ta phải đi cho kịp làm hết các việc Chúa đã giao. Tạm biệt bà nhé.

            Bà già cung kính :

            - Bẩm vâng...

            Thánh Phê-rô, tay cầm ba quả lê, ngoái lại dặn :

            - Bất cứ lúc nào bà nhớ ra muốn gì thì cứ xin với ta, nghe !

            - Bẩm vâng...





            THÁNH Phê-rô đi rồi, bà già dọn dẹp mọi thứ như thường ngày, sau đó, theo thói quen, đi ra sân với cây sào rồi ngước nhìn lên cây lê.

            Bà lấy tay dụi mắt. Có hai điều khiến bà hết sức kinh ngạc. Trên cây lê có hai thằng bé con. Mấy đứa này mọi khi thấy thấp thoáng bóng bà là đã chạy biến, không hiểu sao lần này lại cứ nấn ná trên cây cho bà bắt quả tang. Bà nhìn cây lê của mình : nó sai đầy những quả chín trông thật rực rỡ. Bấy giờ bà mới nhớ ra hai điều bà đã xin cùng thánh Phê-rô. Bà hiểu ra rằng hai thằng oắt không phải không muốn chạy trốn, mà là không thể trèo xuống khỏi cây lê được. Bà làm bộ như không nhìn thấy hai đứa nó, vẫn lấy sào khều rụng đầy một sọt những quả lê ngon lành. Nhưng nặng quá, bà không bưng nổi, mà cái sọt của bà cũng có tuổi chẳng kém gì bà. Bà bèn kiếm ít cành lá bịt những chỗ thủng, tìm sợi thừng buộc vào sọt, cứ thế kéo cả sọt đi, lần này bà kéo hẳn ra chợ.

            Thấy lê của bà ngon quá, người ta xúm lại mua. Bà già vừa bán mà lại vừa như cho, chỉ một loáng hết sạch. Bà vui mừng đếm tiền, mua ngay một cái sọt mới với sợi thừng mới cùng một ít thực phẩm. Sau đó bà thong thả kéo sọt thức ăn về nhà.

            Từ đằng xa, bà đã thấy một lũ trẻ con rồng rắn trong mảnh sân trước nhà bà. Tiếng chúng í ới :

            - Kéo tao xuống với, tao cố mãi mà không sao xuống được.

            - Ấy đừng. Chúng mày mà đụng vào nó thì cũng bị dính chặt vào đấy.

            - Tao cóc sợ. Để tao thử xem.

            - Mày cứ thử thì biết.

            - Thôi chết rồi, tao bị dính vào nó rồi !

            - Eo ơi, chắc cây lê này có... ma !

            - Hu hu, làm sao về nhà bây giờ...

            - Im đi, khóc lóc cái gì !

            - Ai bảo tụi mày cứ phá phách bà già. Bà ấy đã nghèo, có mỗi cây lê này để sinh sống mà cứ tới vặt trộm...

            - Thì mày cũng vặt trộm đấy thôi. Mà chúng mày xem, hôm nay nó sai trái quá trời, vặt mấy quả thì nhằm nhò gì.

            - Nhưng lúc trước nó không sai, chúng mày cũng vặt.

            - Hu hu, mẹ ơi, cứu con với mẹ ơi...

            - Hu hu, làm sao xuống được bây giờ...

            Bà già về đến sân. Một cảnh tượng vừa hỗn loạn, vừa tức cười hiện ra trước mắt bà : ngoài hai thằng nhóc ban sáng vẫn ở trên cây, còn hơn chục đứa trẻ nữa cũng dính chùm vào đó. Nói chung cả bọn vẫn động cựa được, chỉ có tay chúng hoặc bị dính vào cây, hoặc bị dính vào người đứa khác, không cách nào gỡ ra được. Nhìn thấy bà, thoạt tiên chúng có vẻ xấu hổ, nhưng rồi quay ra năn nỉ bà.

            Bà già làm bộ tỉnh khô, cứ mặc bọn trẻ với cây lê, bà đi vào túp lều rách làm việc cho đến trưa. Khi bà ra lại, bọn trẻ chừng như đã mệt, nhìn bà với những cặp mắt van lơn. Bà già bảo :

            - Các cháu hư lắm, chỉ rình hái trộm trái cây của bà. Lần này bà tha cho, lần sau còn vậy, bà cứ để các cháu trên cây mãi đấy, nghe chưa ?

            - Chúng cháu xin chừa, cả bọn nhao nhao đáp, bà làm ơn cho chúng cháu xuống với.

            - Được, cho các cháu xuống, thong thả kẻo mà ngã chổng kềnh cả bọn ra bây giờ.

            Bà vừa nói xong, bọn trẻ thấy tự nhiên tay hết dính. Chúng vội vàng trèo xuống, chạy một mạch đứa nào về nhà đứa nấy, không dám quay đầu nhìn lại.

            Từ bọn trẻ, dần dần mọi người trong làng đều biết cây lê của bà già Cực Khổ "có ma". Mới đầu cũng có nhiều người bán tín bán nghi, nhưng lại e rằng nếu thử hái trộm trái cây của bà già mà bị dính vào thì cũng ê mặt, nên dù người ta không tin hay có tin, cây lê của bà già không còn bị vặt trộm như trước kia, trong khi nó lại ra trái nhiều hơn trước.

            Một hôm, gặp lúc bà già ra chợ, có người khách lạ qua đường, vừa đói vừa mệt, tình cờ thấy cây lê của bà già đầy trái chín, nhìn quanh chẳng thấy ai, giơ tay hái, thế là bị dính chặt vào cây, vùng vẫy thế nào cũng không thoát. Bọn trẻ nhìn thấy kháo nhau, người làng không mấy chốc biết chuyện kéo đến nhìn, nhưng chẳng ai dám gỡ. Họ xúm nhau quanh gốc cây, chờ đến khi bà già ở chợ về, chứng kiến bà làm cho ông khách nọ được giải thoát khỏi cây lê, thì không ai còn nghi ngờ gì chuyện cây lê của bà "có ma" nữa.

            Từ đó bà già khỏi lo rình cây lê nên cũng đỡ vất vả. Nhưng bà vốn xởi lởi, thường hái đem cho hàng xóm ít nhiều chứ không bán hết. Nhờ cây lê, nay bà già có đôi chút tiền bạc, nên đã có thể mượn người sửa qua túp lều cho đỡ xiêu vẹo, thay lại cái cửa nát cho đỡ gió lùa những đêm đông hay những ngày mưa ướt át, mua thêm được ít vải sồi để may áo xống, chăn màn... Còn chút đỉnh bà lại góp nhặt rồi nhờ gửi biếu nơi này chỗ kia cho những kẻ mà bà bảo là cũng cực khổ có khi còn hơn bà nữa. Tuy không nhiều, nhưng vì bà hay làm phúc như vậy, nên chẳng bao lâu những người nghèo khổ quanh vùng hay kháo láo về cái gọi là "món quà của bà già Cực Khổ". Về phần bà, cuộc sống vẫn chẳng lấy gì gọi là sung túc, nhưng cũng tương đối dễ chịu hơn, nên bà cũng thôi than thở, không còn kêu là muốn chết nữa. Tuy nhiên tên gọi bà già Cực Khổ thì vẫn dính chặt lấy bà như thủa nào.



            VÀI năm trôi qua cho đến một tối mùa hè, sau khi vầng thái dương đã khuất hẳn dưới đường chân trời tắp tít xa, bà già đọc kinh cầu nguyện xong, trèo lên cái chõng cũ sửa soạn đi ngủ thì nghe có tiếng gõ cửa. Bà già hỏi vọng ra :

            - Ai mà đến nhà tôi muộn thế này ?

            - Ta là Thần Chết đây mà, ta đã ghé nhà bà mấy lần rồi, bà có nhớ không ?

            - À, ra là ngài. Thế ngài có muốn xơi lê không ? Ngoài cây hãy còn ít quả chín đấy.

            - Không, lần này ta đến không phải để xin lê của bà...

            Nghe thế, bà già thấy hơi chột dạ, bà hỏi :

            - Vậy ngài muốn gì ạ ?

            - Này bà già Cực Khổ, trước kia nhiều lần ta nghe bà đòi ta đưa bà đi khỏi chốn trần gian vất vả này, nhưng vì bà chưa tới ngày tận số, nên ta đành chịu. Đến giờ, bà ở trần gian và chịu đựng đau khổ đủ rồi, nên ta đến đưa bà đi như bà hằng ao ước. Vậy bà chuẩn bị theo ta sang thế giới bên kia thôi.

            Con người ta thực ra vẫn luôn có lòng ham sống sợ chết. Lúc trước quá khổ sở, bà già tuy có than vãn rằng muốn chết đấy, nhưng nay bà sống tuy chẳng phải giàu sang gì, nhưng đối với bà cuộc sống hiện tại cũng không đến nỗi nào. Vả chăng, bà chỉ hưởng chút nhàn nhã mới có vài năm, nay phải giã từ cuộc sống thì cũng phần nào chần chừ, tiếc nuối.

            Bà suy nghĩ hồi lâu trong khi gọi là "chuẩn bị hành trang". Thực ra bà còn có gì để gọi là chuẩn bị ! Con cái không, tài sản cũng không, chẳng phải lo lắng ai sẽ "thừa kế cơ nghiệp" như những người có của chìm của nổi. Chỉ mỗi một cây lê là thứ xem ra đáng giá nhất của bà. Cây lê, chà chà, cây lê. Đột nhiên một ý nghĩ loé lên trong đầu, bà quay bảo Thần Chết :

            - Thế đường đi có xa lắm không ?

            - Xa, rất xa...

            - Vậy tôi có phải mang gì theo ăn uống dọc đường không ?

            Thần Chết thờ ơ đáp :

            - Bà muốn mang gì theo tuỳ thích... Có điều trước bà đã rất nhiều người từng mang theo đủ thứ, nhưng nói thật với bà, họ chẳng dùng được gì.  Dù sao bà muốn mang gì theo ta cũng không cản... Mà bà nhanh nhanh lên nhé, sắp đến giờ rồi đấy.

            - Bẩm ngài, tôi muốn nhờ ngài giúp đỡ hộ một chút được không ạ ?

            - Bà muốn giúp gì ?

            - Chả là cây lê của tôi ngài đã biết đấy, trái nó ngon quá, tôi muốn mang theo vài quả còn sót trên cây để ăn dọc đường ấy mà.

            - Thì được thôi.

            - Nhưng mắt tôi kèm nhèm, đèn lửa thì tù mù, bây giờ ra khều thì làm mất thời gian của ngài lắm. Ngài mắt sáng, ban ngày cũng như ban đêm, chẳng cần đèn đuốc gì cũng có bao giờ lẫn người này với người khác đâu. Vậy ngài chịu khó hái giúp tôi vài quả có được không ?

            Thần Chết nghĩ chiều bà già tí cho xong, nên gật đầu trả lời :

            - Được, ta sẽ hái giúp bà.

            Nói xong, Thần Chết ra cửa lại gần cây lê. Cây lê này kể đã khá quen với Thần Chết, nhưng tối nay hình như nó xum xuê lạ. Cắp vào nách cái lưỡi hái vốn dùng để cắt đứt cuộc đời dương thế những kẻ Thần Chết muốn mang đi, Thần Chết phóc một cái vọt ngay lên một chạc cây. Ngờ đâu, khi Thần Chết giơ tay định hái mấy quả lê chín lủng lẳng trước mắt, thì thấy tay bị dính chặt vào cây. Thần Chết càng vùng vẫy thì dường như càng bị kéo chặt vào cây hơn. Hoảng quá – điều mà trước giờ chưa hề xảy ra – Thần Chết bèn la ầm lên :

            - Bà già Cực Khổ kia, cái cây lê này nó làm sao thế ?

            Bà già trong nhà nói vọng ra :

            - Vẫn cây lê ấy chứ có gì đâu !

            - Sao ta bị dính chặt vào cây thế này ?

            - Chắc ngài bị vướng áo xống gì đó vào cây đấy thôi.

            - Vướng đâu mà vướng. Chắc cây lê của bà có... ma...

            - Ngài là Thần Chết cơ mà, có ma đi nữa hẳn ma nó cũng phải sợ ngài chứ...

            Thần Chết nghĩ thầm :

            - Đúng thế thật, có ma thì nó phải sợ ta, chứ ta lại sợ ma sao được. Nhưng mà sao ta lại dính chặt vào cây thế này, gỡ cách nào cũng không ra...

            Thần Chết lại gọi :

            - Bà già mau ra giúp ta một tay nào.

            - Tôi già lão yếu đuối thế này giúp ngài thế nào được. Ngài cố mà trèo xuống mau đi kẻo lại muộn mất.

            - Không xuống được, không xuống được.

            Bà già cứ mặc kệ Thần Chết ở ngoài đấy với cây lê, đủng đỉnh đi vào đi ra trong túp lều cà khổ rồi trèo lên chõng đánh một giấc thẳng đến sáng. Trong khi đó, Thần Chết xoay xở hết cách này đến cách khác vẫn không sao kéo được hai tay ra khỏi cây lê của bà già. Muốn nhờ người giúp, nhưng nghĩ mình đường đường là... Thần Chết, trước giờ kêu ai là kẻ ấy phải răm rắp tuân lệnh đi theo, có muốn chần chừ thì cũng chỉ cần đưa lưỡi hái "xoẹt" một cái, thế là đời kẻ đó cứ gọi là đi đứt ; vậy mà giờ đây lại lủng lẳng như mấy trái lê trên cái cây khốn kiếp này, bực bõ quá mà ngại ngùng không dám la hét giữa đêm khuya thanh vắng, Thần Chết tự nhủ :

            - Bao lâu nay mình vất vả, chẳng có lấy một phút nghỉ ngơi. Thôi nhân dịp này cứ đánh một giấc cho đã.

            Thế là Thần Chết nhắm mắt lại, ngáy khò khò trên cây lê. Gớm chưa, từ khi Chúa dựng nên con người trên trái đất tới bây giờ chưa được ngủ, nay làm một giấc thì phải biết. Thần Chết ngủ li bì trên cây không phải chỉ mười hai tiếng đồng hồ, mà đến... mười hai năm liền !


            BÂY giờ mới xảy đến bao chuyện cười ra nước mắt trên cõi trần gian.

            Thoạt tiên ở làng bên có lão nhà giầu chẳng may mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo, bụng cứ nổi chướng lên, kêu la đau đớn quá sức. Chạy chữa khắp nơi, kiêng khem đủ thứ, bệnh vẫn không thuyên giảm. Nghe tiếng thầy thuốc nọ là tay danh y, anh con trai cho người chở bố đến nhờ thầy chữa trị. Thầy thuốc xem bệnh xong, gọi riêng anh ta bảo :

            - Ông thân sinh nhà anh không qua khỏi đâu. Chỉ chừng dăm ba hôm nữa thôi. Anh về mà chuẩn bị hậu sự. Ngoài ra nếu ông nhà anh thích gì cứ mua về cho ăn cho thoả, chẳng phải kiêng khem mà cũng đừng tiếc ông làm gì !

            Nghe lời, anh ta chở bố về, một mặt đi đặt sẵn áo quan, một mặt cho mua đủ thứ của ngon vật lạ cho bố xơi. Qua khỏi dăm ba hôm, rồi mươi bữa nửa tháng, ông bố ngày bụng càng to ra, nhưng ăn thì rất khoẻ, ăn xong lại nằm kêu la quằn quại. Cứ thế ròng rã suốt ba tháng trời. Anh con trai mỏi mệt, mà mỗi ngày mỗi hao tài tốn của, trong lòng thắc mắc sao bố chưa chịu chết cho như lời ông thầy đã phán. Tức mình anh đến hỏi thầy thuốc. Thầy đáp :

            - Tôi cứ triệu chứng mà chẩn bệnh, còn bố anh chưa chịu chết là bởi cớ gì thì tôi không biết. Anh cứ thử tìm các thầy thuốc khác hỏi xem tôi nói có đúng không.

            Anh nọ chẳng biết làm sao, về nhà lại bắt bố nhịn ăn. Thành ra bố con cãi nhau ỏm tỏi. Bệnh ông bố mỗi ngày mỗi tăng, nhưng vẫn cứ sống, không chết !  

            Sau đó ít lâu, có tên ăn cướp giết người khét tiếng vốn bị tróc nã, xui xẻo thế nào lần ấy chưa kịp ra tay thì sa lưới rồi bị xử treo cổ. Nghe tin, người ta lũ lượt kéo nhau đi xem. Ngày hành hình tới, tên ăn cướp bị điệu ra, thân hình tiều tuỵ, mặt mũi thất thần. Quan toà và người thầy thuốc của toà đi theo để chứng thực việc thi hành bản án ; lại một vị linh mục già cũng được cử đến để giải tội cho y. Đến bên giá treo cổ, người ta trói chặt hai tay hai chân y. Vị linh mục ghé bên tai y thì thầm :

            - Con có nhìn nhận mọi tội lỗi con đã trót phạm không ?

            Y sụt sùi đáp :

            - Bẩm có.

            - Con có thật lòng ăn năn các tội đó không ?

            Y càng nức nở :

            - Bẩm có.

            Đột nhiên y la to :

            - Nếu Chúa tha chết cho con, con xin dốc lòng chừa, từ nay chẳng hề bao giờ dám phạm tội nữa.

            Vị linh mục ban phép giải tội cho y rồi lặng lẽ tránh ra cho lí hình làm việc. Họ cho y đứng lên một súc gỗ, thòng một thòng lọng đã buộc sẵn trên giá vào cổ y, kéo cho vừa thít vào cổ. Xong đâu đấy, người ta đứng dạt ra hết, một người lí hình đạp mạnh vào súc gỗ cho nó rời khỏi chân tử tội. Một tiếng "hự" phát ra, sợi thừng căng thẳng, thít chặt lấy cổ kẻ tử tội đung đưa bên dưới.

            Thường thì chỉ năm ba phút là kẻ bị treo cổ đã tắt thở, nhưng lần này người ta thấy tên tử tội quằn quại rất lâu dưới sợi thòng lọng. Do sức nặng của thân hình y, người ta có cảm tưởng y muốn rướn người lên để thở mà không được. Dù vậy, rõ là y vẫn chưa chết. Người thầy thuốc sốt ruột nhìn ông quan toà, ông quan toà nhìn lại ông thầy thuốc. Đám đông cũng chăm chú nhìn kẻ tử tội cách kinh ngạc.

            Một giờ đồng hồ trôi qua, bỗng có tiếng la lớn trong đám đông :

            - Thả anh ta xuống thôi, lâu thế mà anh ta vẫn chưa chết. Chắc Chúa đã nghe lời anh ta cầu xin rồi !

            Nghe thế, cả đám đông cùng nhao nhao lên, đòi phải thả tên tử tội. Quan toà chẳng biết làm sao, bèn hội ý với ông thầy thuốc, rồi ra lệnh cho lí hình cắt dây thòng lọng đem tên tử tội xuống. Người ta gỡ thòng lọng khỏi cổ y, thấy quanh cổ bị trầy xước rớm máu, cùng với những vết hằn to tướng. Nhưng y đã thở lại. Người ta hoan hô ầm lên. Phụ nữ có người sụt sịt, người làm dấu Thánh Giá ; đây đó nổi lên râm ran :

            - Giê-su lạy Chúa tôi.

            - Kìa xem, Chúa tha tội cho anh ta kìa.

            - Y như kẻ trộm lành trên đồi Can-va-ri-ô.

            Y được quan toà làm biên bản tha bổng. Về sau hình như y xin vào tu tại một dòng khổ tu trên núi.

            Tuy thế, chuyện tên tử tội bị treo cổ có lẽ vẫn chưa phải li kì hạng nhất. Bởi không bao lâu sau, ở trên tỉnh xảy ra đám đánh nhau. Hai địch thủ đều có võ khí, lại đều là những võ quan. Chả biết hục hặc thế nào mà họ lôi nhau ra thách đấu. Kết cục, một anh bị gươm đâm thủng ngực, nhưng trước đó anh ta cũng đã kịp vung kiếm chém đứt lìa đầu đối phương. Sau khi các nhân chứng kí vào biên bản, anh bị đâm thủng ngực được băng bó vết thương và được chở về. Thấy máu chảy nhiều quá, có kẻ bảo :

            - Anh này rồi cũng sớm "đi" thôi.

            Còn anh nọ tuy đầu bị đứt lìa, mà thân mình vẫn cứ co giãy mãi. Đến khi người ta ráp đầu anh vào thân, cột chặt lại, rồi định đưa về an táng, thì chuyện li kì xảy ra. Người ta thấy anh ta bỗng hớp hớp thật mạnh trong không khí, sau đó ngực anh ta tiếp tục phập phồng thở. Thấy anh dường như chưa chết, người ta vội chạy tìm thầy thuốc băng bó cho anh ta.

            Rốt cuộc cả hai dù nằm li bì đến mấy tháng sau đó, nhưng chẳng anh nào chết ! Người ta bắt đầu để ý rằng không chỉ một làng, một xã, một tỉnh, mà là trong cả vùng, suốt một năm chẳng có đám ma nào. Họ kháo nhau rằng từ nay không ai chết nữa. Nhiều người thấp thỏm theo dõi tình hình thêm một thời gian. Tin tức các nơi truyền đi khắp cả xa gần, người ta thuật cho nhau nghe nhiều câu chuyện còn lạ lùng hơn, mà chuyện nào cũng là những trường hợp trước kia chắc chắn dẫn đến cái chết, còn bây giờ thì không ; dù chỉ còn ngắc ngoải, nhưng vẫn không chết. Đã hơn một năm, không riêng vùng đó mà đâu đâu cũng không có người chết. Cuối cùng rất nhiều người tin chắc từ nay sẽ không còn ai phải chết ! Những người như thế chiếm đa số. Còn lại cũng có người dè dặt, chưa kể là có những người dù thế nào vẫn nhất định không tin. Trong những người tin, có kẻ lấy làm thích thú vui mừng ra mặt, nhất là những kẻ giầu có, quyền lực. Không phải lo chết, họ lao vào ăn chơi trác táng. Những kẻ cậy quyền cậy thế ra sức bóc lột đồng loại. Rồi thì những vụ bạo loạn, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Pháp luật không còn khả năng kiểm soát an ninh trật tự, mà cũng chẳng còn mấy ai làm công việc bảo vệ pháp luật. Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên và ở khắp nơi, nhưng lại không phải những cuộc chiến giữa các lực lượng lớn, vì ngay các vua chúa cũng không đủ sức điều khiển binh lính của mình. Tóm lại là một sự hỗn loạn tột độ, mạnh ai nấy làm, chẳng ai bảo ban được ai.

            Ngay trong thiểu số không tin lúc đầu, dần dần người ta cũng ngã lòng, vì tận mắt chứng kiến những tranh giành tàn khốc mà những kẻ bị thương, thậm chí trọng thương, vẫn cứ không chết. Trong hàng các giáo sĩ cũng có nhiều người hồi tục. Một số còn tự kiềm chế, nhưng hầu như mọi người đều sống theo bản năng, không còn bất cứ giá trị luân thường nào, không còn chút đạo đức liêm sỉ nào.

            Đến khi đó người ta nhận ra rằng không chết không phải đã là hay. Không chỉ những người nghèo đói cô thân cô thế nay càng bị chèn ép, sống không ra sống, chết chẳng chết cho, giá trị con người có khi còn không bằng con vật, mà ngay cả những kẻ giầu có, nhiều quyền thế... cũng không phải đã hạnh phúc. Sự truỵ lạc vô độ làm sinh ra vô số bệnh tật ghê gớm mà trước kia chưa hề có. Dù lắm của nhiều tiền, dù có quyền trong tay để bắt ép những thầy thuốc giỏi giang để chữa trị cho mình, nhưng sức người có hạn, thầy thuốc trong rất nhiều trường hợp cũng bó tay không biết chữa trị cách nào. Chưa kể số thầy thuốc vô lương tâm ngày một đông, trong khi số thầy thuốc giỏi ngày một hiếm, vì người ta không thể dạy dỗ đào tạo thêm được ai nữa. Các trường học đóng cửa. Các nhà thương trước còn phục vụ chỉ cho những kẻ có tiền bạc, nhưng vì con bệnh lắm quá, chẳng còn ai có khả năng phục vụ ai, nên chỉ một thời gian ngắn ngủi, các nơi này cũng chẳng khác gì chốn chợ búa. Người ta đối xử với nhau bằng đủ thứ mưu mô thủ đoạn. Đâu đâu cũng đầy rẫy những cảnh trái ngược nhau một cách tai quái. Người đói khát bần cùng la liệt, kẻ bệnh hoạn tật nguyền vô số. Số người già ngày một nhiều lên, mà số những trẻ mới chào đời cũng tăng gấp bội. Nhà cửa chật chội khiến người ta bức bối. Do những chuyện giành giật, đụng độ, xô xát, đánh nhau quá nhiều, nên những kẻ mang thương tật cũng đầy rẫy, chỗ này kẻ lủng lẳng cánh tay gẫy, chỗ nọ kẻ bò lê bò la vì chân bị đứt lìa. Người thủng ruột thủng gan, kẻ lòi phèo lòi phổi. Bệnh tật gia tăng mà không có thuốc chữa trị. Mọi hình thức sản xuất đều ngưng trệ, ruộng nương không ai canh tác, làm cho lương thực trở nên thiếu hụt. Vả lại chỗ nào còn trồng cấy đôi chút gì đó cũng bị trộm cướp hoành hành, nên chẳng còn ai ra sức làm việc. Vì thế không chỉ thiếu thốn lương thực mà còn thiếu thốn đủ mọi thứ. Khắp nơi là một cảnh tượng vô cùng bi thảm, đến nỗi có rất nhiều người đã cố gắng... tự tử. Tuy nhiên vì đã biết rõ có đâm chém gì thì cũng cứ sống, lại còn tuy sống mà tệ hại bội phần, nên ngoài những kiểu tự tử... tầm thường như nhịn ăn, nhịn uống – thực tế có không ít người cũng chẳng còn kiếm được gì mà ăn – nên có kẻ tự bịt miệng, bịt mũi nhịn thở... Nhưng hẳn bạn cũng đoán được kết cục : chẳng ai chết. Có kẻ cũng đã thử những cách ghê gớm hơn, chẳng hạn nhảy xuống sông, xuống giếng. Dĩ nhiên họ cũng không chết mà còn khổ sở hơn : chẳng ai rỗi hơi cất công vớt những kẻ ấy lên, thế là họ vừa lạnh lẽo, vừa sặc sụa, vừa ngắc ngoải dưới nước và... không chết. Lại có kẻ thử uống thuốc độc, và tình trạng càng khốn đốn : đau đớn quằn quại mãi vì thuốc độc hành hạ từ trong cơ thể, nhưng tất cả vẫn không chết !




            BẤY giờ người ta càng lúc càng nhận ra sự khốn nạn của chính bản thân mỗi người. Một số ít ỏi bắt đầu kêu gọi lập lại trật tự. Dần dần người ta buộc lòng nhìn thấy tình trạng đáng thương của chính mình. Ý thức của mỗi người từng bước trở về cách chậm chạp. Phải mất một thời gian rất lâu người ta mới có thể bình tĩnh lại. Sau khi tình trạng hỗn loạn đã tạm lắng dịu, người ta cố gắng thành lập những phương sách tìm hiểu xem nguyên nhân vì sao mà mọi người không còn chết. Một số kẻ có học vấn vùi đầu vào hàng đống sách vở, mà mới đây người ta đã bỏ xó vì cho là không cần, để xem sách vở có đề cập gì đến tình trạng bất tử của con người không. Nghiên cứu chán chê, mỗi người đưa ra một kết luận hết sức đối nghịch nhau. Lại đâm ra cãi nhau chí choé, ai cũng muốn lí thuyết của mình phải được mọi người nhìn nhận, suý‎‎t nữa lại xảy ra đánh nhau, may mà họ còn kiềm chế được. Nhưng hết thảy đều dẫn đến bế tắc.

            Tình cờ một hôm có anh nông dân thất học vớ được mảnh giấy rách, trên có viết chữ. Không biết chữ, mà cũng chẳng biết dùng mảnh giấy rách ấy làm gì, nên anh  định vất đi, thì gặp một thầy nọ đi ngang qua. Trông thấy mảnh giấy, thầy tò mò bảo anh nông dân đưa xem thử. Hoá ra là một câu Thánh vịnh 116 trong Kinh Thánh, như sau :

            Dây tử thần bủa vây tôi chằng chịt,

            Lưới âm ti chụp xuống trên mình...

            Thầy xem xong đột nhiên mắt sáng rỡ, bắt chước Archimedes, la lên :

            - Tìm ra rồi, tìm ra rồi !

            Người ta hỏi :

            - Tìm ra cái gì ?

            - Tìm ra nguyên nhân sao người ta lại không chết rồi !

            - Nguyên nhân sao ?

            - Thần Chết...

            - ?...

            - Phải đi tìm Thần Chết ngay mới được.

            - Nhưng biết tìm Thần Chết ở đâu ?

            - ?...

            Kẻ khác lại hỏi :

            - Mà các người có biết mặt mũi Thần Chết ra sao không ?

            - Nào ai đã trông thấy Thần Chết bao giờ mà biết được. Kẻ nào nhìn thấy Thần Chết thì cũng đều... chết hết trơn còn gì !

            Té ra nào có phải đã tìm được gì đâu. Nhưng thà biết được đôi chút vẫn hơn không biết gì. Thế là người ta đồn cho nhau nghe rằng bấy lâu nay thế gian vắng bóng Thần Chết nên không ai chết. Vậy phải tổ chức các đội săn tìm Thần Chết mới được.

            Người ta đùm túm ít lương thực còn vét được, rồi chia nhau các ngả để đi tìm Thần Chết. Cuộc săn lùng có vẻ như vô vọng, nhiều người đã chán ngán vì mỏi mệt, những chỉ muốn... chết cho xong. Nhờ thế mà người ta lại có thêm chút ít nghị lực để đi tìm Thần Chết.

            Một ngày, một trong những bọn người săn tìm Thần Chết ngẫu nhiên ghé qua làng của bà già Cực Khổ. Cũng chỉ là tình cờ mà thôi, vì lúc đó họ đã mỏi mệt và chán chường lắm rồi. Bụng thì đói, miệng thì khát, chân thì rã rời, họ thất tha thất thểu cứ cắm cúi đi mà chẳng còn biết là đường đi dẫn đến đâu. Bỗng có người nhìn lên rồi nói :

            - Thôi rồi, đường cụt.

            - Nản quá. Đi đã rạc cẳng bao lâu nay có tìm thấy cái lão Thần Chết nọ ở đâu đâu...

            - Ê các ông, đằng kia hình như có cây lê. Đói quá rồi, lại đó xem có kiếm được trái nào bỏ bụng đỡ đói không...

            Bọn họ vội rảo chân bước đến.

            - Ồ, cây lê sai trái chưa kìa, mau hái xuống một ít.

            Người đầu tiên vừa giơ tay sờ được vào quả lê thấp nhất bèn dính tịt bàn tay vào đó, không sao rụt về được. Anh ta hoảng hốt :

            - Quái lạ, tay tôi làm sao mà gỡ không ra thế này ?

            - Để đó tôi.

            Nói xong, người này sán ngay lại. Nhưng vừa mới chạm vào người thứ nhất, anh ta cũng dính tịt vào anh nọ luôn. Anh hoảng hốt la lêm om sòm :

            - Đừng lại gần nữa, cây lê này có ma.

            Những người còn lại vừa kịp dừng bước. Họ nhìn lên cây, dụi mắt. Quả là cây có... ma thật ! Họ đã kịp trông ra một bộ xương trắng hếu cùng với một lưỡi hái bóng loáng. Bên ngoài bộ xương là một bộ áo choàng rách bươm. Tất cả khiếp đảm lùi lại. Không ngờ bộ xương cất tiếng, giọng rất rõ ràng, nhưng nghe rợn cả người :

            - Ma đâu mà ma. Ta chính là Thần Chết đây...

            Thoạt nghe hai tiếng Thần Chết, cả bọn đều sững sờ đến lặng ngắt đi một lúc. Thuở giờ nào ai biết Thần Chết ra sao, nay được nhìn tận mắt Thần Chết bằng xương bằng..., à, không bằng thịt, thế này thì hẳn đúng rồi, nên họ đồng thanh la toáng lên :

            - Thần Chết !

            Tất nhiên có kẻ còn nghi ngờ :

            - Ông... bà... là Thần Chết ư ?

            Thần Chết cười nghe thật rùng rợn, đáp :

            - Phải, ta là Thần Chết, Chẳng phải ma nào mà cũng chẳng phải ông nào với bà nào.

            Bọn kia nhao nhao lên :

            - Thế là chúng ta đã tìm thấy rồi. Mau đi báo tin cho mọi người.

            - Mà sao ngài lại ở đây để bọn tôi đi tìm mãi mà không gặp ?

            Thần Chết rầu rĩ :

            - Ta đã bị giữ trên cây lê này đã mười hai năm nay rồi mà không sao xuống được. Các ngươi đi tìm ngay bà già Cực Khổ lại đây.

            Những người kia ngẩn cả ra. Họ có biết bà già Cực Khổ là ai ! Họ định chạy đi ngay, nhưng Thần Chết đã gọi giật lại :

            - Xem chừng các ngươi đói rã ra thế kia rồi còn đi đâu được. Ăn tạm mấy quả lê quái quỷ này đi. Ngon lắm đấy.

            Nói xong, Thần Chết rung mạnh cây để làm những quả lê chín rụng xuống cho mấy người kia. Họ chưa kịp hiểu tại sao Thần Chết sẵn lưỡi hái lại không lấy mà hái, còn phải rung cây làm gì cho nhọc. Nhưng thấy những quả lê ngon lành, họ vội nhặt lấy bỏ mồm nhai ngấu nghiến. Bấy giờ họ nhìn lên mới thấy hai bạn mình không tài nào bứt được những quả lê ra khỏi cây, thậm chí ngay cạnh hai người này cũng có khá nhiều quả chín, nhưng khi một anh vừa ghé miệng lại thì quả lê dính chặt ngay lấy môi anh ta, muốn cắn cũng không được. Thật là cảnh dở khóc dở cười, bụng đói, thức ăn ngay cạnh miệng mà phải chịu trận, chẳng khác gì Tantalos dưới âm ti !

            Bọn kia ăn xong, vội tản ra khắp nơi, kêu réo ầm ĩ về tin đã tìm được Thần Chết. Chẳng mấy chốc, người ta lũ lượt đổ xô về ngôi làng nghèo nàn hẻo lánh, tìm đến túp lều của bà già Cực Khổ. Cả một vùng huyên náo suốt ngày đêm. Hai anh chàng bị dính vào cây tuy có cảnh báo cho mọi người biết về chuyện "cây lê có ma", nhưng không thiếu người hấp tấp, chẳng chịu suy nghĩ gì – chắc là họ muốn chết trước ! – nên vừa đến nơi đã vội nắm lấy khúc xương ống chân của Thần Chết mà lôi. Nhưng nào có lôi được. Dù Thần Chết chỉ toàn xương với xương, nhưng mọi đốt xương của Thần Chết cứ gọi là bám chắc vào nhau chứ không rã ra như xương... người chết, nay lại được gia cố thêm bằng thứ "lực kết dính" của cây lê "có ma", thành thử những người nhanh nhẩu nọ lại bị dính cứng ngắc vào đấy, nối nhau thành một đoàn rồng rắn đến là vui mắt. Họ la hét ỏm tỏi, còn Thần Chết cứ la lên oai oái :

           - Mấy người này chẳng chịu nghe cho rõ, chỉ nhanh nhẩu. Bây giờ dính chùm cả vào đây thì còn làm được gì !

            Vì chưa kịp nghe lời chỉ dẫn của Thần Chết cho biết cách giải quyết khó khăn, cứ hấp tấp mạnh ai nấy lôi với kéo, nên mọi người dính cả vào cây, cả vào nhau, làm cho đoàn rồng rắn nọ dài ra có đến vài chục mạng !

            Bấy giờ họ lại quay ra la hét om sòm :

            - Cha này cứ nắm dính vào cẳng tôi thế này, nặng quá !

            - Buông tay tôi ra cái coi.

            - Buông được thì tôi buông rồi, tưởng tôi khoái nắm anh sao ?

            - Sao lại không buông ra được ?

            - Thì chính anh đó, thử buông ra xem có được không ?

            - Quái thật, vậy cây lê này có ma rồi !

            Thần Chết thấy họ cứ cãi nhau ỏm tỏi, không chịu yên lặng nghe mình nói, nên cũng... không thèm nói luôn. Mãi sau, cãi cọ nhau đã chán, ai nấy thở hổn hển, nhưng vẫn không ngớt rên rỉ than vãn. Một người bực bội hét lớn :

            - Thôi, im đi, rên hoài !

            - Ông im trước đi thì có.

            Người khác nhỏ nhẹ :

            - Thôi đừng cãi nhau nữa, giờ thử nghĩ xem phải làm sao đây.

            - Nghĩ quái gì nữa mà nghĩ. Cứ xin Thần Chết vung lưỡi hái lấy đầu vài người xem có phải là nhanh không. Sốt ruột lắm rồi.

            Thần Chết vẫn chẳng thèm lên tiếng. Một người lại bảo :

            - Thôi các ông im hết đi cho. Thần Chết đây hẳn biết cách giải quyết. Sao không hỏi ngài xem sao ?

            Mọi người nghe anh ta nói phải bèn dịu lại. Bấy giờ một người mới quay hỏi Thần Chết :

            - Thưa ngài, bây giờ phải làm sao đây ?

            Thần Chết hờ hững trả lời :

            - Ngay từ đầu ta đã bảo phải đi tìm bà già Cực Khổ. Chỉ bà ấy mới có cách giải quyết. Thế mà các người có chịu nghe đâu, chỉ la với hét om sòm...

            Lại một cơn om sòm khác nổi lên :

            - Anh em ơi, Thần Chết bảo phải đi tìm ngay bà già Cực Khổ.

            - Bà già Cực Khổ là ai ? Mà bà ấy ở đâu ?

            - Không biết, cứ đi tìm ngay đi, như vừa rồi bọn ta đi tìm Thần Chết ấy.

            Thấy họ lại cứ náo loạn vậy – đó chẳng qua ai cũng muốn... chết – , Thần Chết lặng yên ngủ gà ngủ gật. Hoá ra Thần Chết cũng khoái ngủ. Giấc ngủ vừa rồi kéo dài cả chục năm có dư như thế, mà xem chừng Thần Chết vẫn chưa đã thèm.




            LÚC đó tin tìm thấy Thần Chết đã đồn đại khắp nơi. Số người kéo đến mỗi ngày một nhiều. Họ vây quanh gốc cây lê, dẵm xéo lung tung, nằm ngồi la liệt khắp mảnh vườn con của bà già Cực Khổ, thế mà vẫn chẳng ai biết bà già Cực Khổ ở đâu.

            Không ai để ý thấy cánh cửa tuềnh toàng của túp lều chợt mở, tiếp đó một bà lão lụ khụ chống gậy lần từng bước ra ngoài. Bà nhìn quanh. Lâu, lâu lắm rồi bà mới thấy đông người tụ tập thế này. Bà thều thào hỏi :

            - Các người làm gì ở đây thế ? Lại có ai dính vào cây lê của tôi rồi ư ?

            Nhưng ồn quá, chẳng ai nghe bà nói gì. Thần Chết la lên bằng một giọng khủng khiếp :

            - Bà già Cực Khổ đó !

            Mọi người lặng đi.

            Bà già hỏi lại :

            - Các người làm gì ở đây thế ?

            Người ta lại tranh nhau kể, làm bà già không hiểu họ muốn nói gì. Thần Chết lại gầm lên :

            - Có im đi không ! Ồn thế bà già nghe thế quái nào được.

            Người ta im lặng. Bà già hỏi :

            - Ông là ai ?

            Thần Chết đáp :

            - Chẳng ông nào cả. Ta là Thần Chết đây !

            Bà già lẩm bẩm :

            - Lão Thần Chết này lại đến xin lê nhà mình.

            Ngước nhìn lên cây lê, bà nói :

            - Hẳn ngài muốn xơi lê chứ gì ? Thì ngài cứ hái bao nhiêu tuỳ ý.

            - Hái được thì đã tốt. Mười hai năm nay ta mắc kẹt trên cây lê này có ăn được quả nào của bà đâu mà bà bảo cứ hái bao nhiêu tuỳ ý ! Gọi bà, bà cũng còn chẳng thèm nghe nữa kia.

            - Xin lỗi ngài nhé, tôi đã già lão điếc lác thế này...

            Thần Chết ngắt ngang :

            - Hơn mười năm trước bà đã điếc lác gì mà cũng có chịu nghe ta đâu !

            Bà già nhíu mày, hẳn cố nhớ xem chuyện gì đã xảy ra. Rồi bà lắc đầu :

            - Lâu quá rồi tôi không nhớ được gì nữa.

            Bấy giờ Thần Chết mới thong thả kể lại cho bà già. Nghe xong bà mỉm cười :

            - Ra thế đấy. Thế là đã mười hai năm rồi nhỉ.

            - Chứ lại không. Bà làm mất bao nhiêu thì giờ của ta, làm đình trệ bao nhiêu là công việc của ta.

            - Xin lỗi ngài vậy. Thế bây giờ tôi phải làm gì ?

            - Bà mau thả ta xuống, rồi theo ta sang thế giới bên kia...

            - Thế rồi sao nữa ?

            - Sao sao cái gì ! Rồi những người này đây cũng theo bà đi với ta. Bà xem, thật là đông vui nhé !

            Bà già lắc đầu :

            - Vui gì mà vui, tôi chẳng thấy vui tí nào.

            - Thế bà muốn gì ? Bà cứ để ta dính tịt đây thì làm sao ta chu toàn công việc bổn phận Chúa giao cho ta ?

            Những người khác bây giờ cũng góp lời, van xin bà già xem đến hoàn cảnh khốn khổ của họ : ai cũng muốn chết mà không sao chết được.

            Bà già có vẻ mỏi. Người ta chạy vào lều kiếm cho bà cái ghế. Ngồi xuống, bà già ngẫm nghĩ. Tội nghiệp, cái đầu bé nhỏ già nua của bà lâu nay không quen phải nghĩ ngợi, nên bà có vẻ rất khổ sở. Người ta nghe bà thì thầm :

            - Chết ư ? Nhưng mà mình đâu có muốn chết.

            Đột nhiên bà rên lên :

            - Lạy thánh Phê-rô...

            Cả một vùng bỗng sáng chói. Thánh Phê-rô hiện ra, mỉm cười hiền lành. Mọi người vội sụp xuống :

            - Lạy thánh Phê-rô.

            Thần Chết cũng thì thào :

            - Lạy thánh Phê-rô, mong rằng ngài đừng can thiệp vào công việc của tôi.

            Thánh Phê-rô nhìn bà già :

            - Bà muốn gì đây ?

            Ngài chỉ nói thế mà bà già chợt nhớ ngay lại câu chuyện xảy ra với bà từ đã rất xa xưa. Bà nhớ rằng bà còn một điều ước nguyện thứ ba mà chắc chắn sẽ được thánh Phê-rô chuẩn y. Bà nhìn ngài thều thào trả lời :

            - Bẩm, con muốn sống mãi, con không muốn chết đâu...

            Thánh Phê-rô mỉm cười quay nhìn Thần Chết, bảo :

            - Mọi việc xảy ra không qua được thánh ý Chúa. Ngươi không phải chịu trách nhiệm về việc bà già Cực Khổ này không chết !

            Rồi ngài nói với bà già :

            - Được, ta chuẩn y lời bà xin. Bây giờ, bà mau cho Thần Chết và những người này xuống. Mà khoan đã...

            Ngài nói với mọi người tụ tập chung quanh đó :

            - Các ngươi không được chen lấn làm mất trật tự. Phải xếp thành hàng từ gốc cây lê này. Xếp hàng năm đi... À thôi, xếp hàng mười cho nhanh. Thần Chết giở sổ ra xem thứ tự mỗi người, ai chết trước, ai chết sau.

            Cả một khối người khổng lồ chuyển động. Nhưng bằng phép mầu, thánh Phê-rô đã làm cho cả bọn họ nhanh chóng xếp hàng theo đúng trật tự trong sổ Tử của Thần Chết trong nháy mắt. Xong đâu đấy, ngài bảo bà già :

            - Bây giờ bà cho Thần Chết với mấy người kia xuống.

            Bà già nhìn lên cây lê thều thào :

            - Cho ngài và các người kia xuống, cẩn thận không thì té.

            Chợt có tiếng sụt sịt :

            - Ôi lạy thánh Phê-rô, xin ngài giải tội cho con.

            Đám đông trước giờ chỉ muốn chết vì cuộc sống quá khốn khổ, nhưng nay đối diện với cái chết gần kề, theo bản năng tự nhiên của con người, lại đâm ra sợ hãi. Mọi người đều khóc lóc nức nở, chẳng trừ một ai !

            Thánh Phê-rô ngao ngán nhìn bọn họ. Nhưng rồi ngài mỉm cười :

            - Chúa nhân lành vô cùng. Lẽ ra các ngươi nặng thì... xuống hoả ngục, nhẹ thì cũng ở trong lửa Luyện tội dăm bẩy... ngàn năm. Nhưng thôi, chính ta cũng đã được Chúa thương tha tội, nên giờ ta cũng phải cho các ngươi được chung hưởng lòng lành của Chúa.

            Rồi ngài gọi trong đám đông những linh mục ra để ngài giải tội cho họ trước. Sau đó, đến lượt các vị này giải tội cho những người khác. Ai nấy đều thành tâm xưng thú hết mọi tội lỗi mình đã phạm trong bấy nhiêu tháng năm qua. Thần Chết đành phải kiên nhẫn chờ hết người này đến người khác xưng tội xong, rồi nhẹ nhàng giải thoát cho họ khỏi kiếp sống dương gian...


            Về phần bà già Cực Khổ, vì được thánh Phê-rô nhân danh Chúa ban phép cho không phải chết, nên đến tận ngày nay, Cực Khổ vẫn còn hiện diện mãi trên cõi đời này.


HẾT CHUYỆN